
Bát tướng
Trong tướng học chỉ tám loại tướng cách. Thiên Quan nhân bát tướng pháp sách Thần tướng toàn biên chép: Một là uy, tôn nghiêm gọi là uy. Hai là hậu, tướng mạo phúc hậu, đầy đặn gọi là hậu. Ba là thanh, thần thái đẹp đẽ gọi là thanh; thanh mà không hậu thì ắt là gần chỗ bạc. Bốn là cổ, khí cốt nổi trội gọi là cổ; cổ mà không thanh thì gần chỗ thô tục. Năm là cô, cô tức là hình thể xương cốt lạnh lẽo cô độc, xương vai dài mà hướng lệch lên phía sau não, ngồi như vẹo một bên, đi như mắc vướng cái gì, giống như chỉ có một con hạc bên mép nước, trong đó hai bên là con cò. Sáu là bạc, bạc tức là thân thể dung mạo suy nhược, hình thể nhẹ hẫng, khiếp sợ, sắc hôn ám, thần khí lộ mà không ẩn, như một chiếc thuyền lá trôi dật dờ trên sóng lớn. Bảy là ố, hình thể dung mạo hung hăng ngoan cố như thể là rắn với chuột, sói với lang, hoặc là tính tình hung bạo, thần thái khiếp đảm, xương cốt tổn thương khí chương bị phá, đều chủ về sự hung bạo, không đầy đủ để có hình tướng đẹp. Tám là thô tục, thô tục tức là hình mạo hôn trọc, như là chìm trong lớp bụi. Bát học đường
Thứ nhất là Cao minh bộ học đường, tức chỉ đỉnh trán, căn cứ vào đó mà xem đầu não, trí tuệ. Thứ hai là Cao quảng bộ học đường, tức chỉ góc trán, căn cứ vào đây để xem đầu não, trí tuệ và sự nghiệp. Thứ ba là Quang đại bộ học đường, tức ấn đường, nhìn vào đây để đoán việc quan lộ và thọ mệnh. Thứ tư là Minh tú bộ học đường, tức chỉ đôi mắt, dựa vào đây để xem xét quan lộ, chức vị, quyền cao hay thấp, lớn hay nhỏ. Thứ năm là Thông minh bộ học đường, chỉ lỗ tai, căn cứ vào đây để xem sự thông minh và danh tiếng. Thứ sáu là Trung tín bộ học đường, tức chỉ răng, căn cứ vào răng để xem sự tín hiếu và đức độ lời ăn tiếng nói. Thứ bảy là Quảng đức bộ học đường, tức chỉ đầu lưỡi, căn cứ vào đây để xem đạo đức và chương tháo. Thứ tám là Ban duẩn bộ học đường, tức chỉ lông mày, căn cứ vào đây để xem sự thọ yểu.
Bát tự mi
Mày như hình chữ bát (?),hướng ra bên ngoài chếch xuống dưới. Theo tướng học thì người có loại mày này là tướng vô phúc. Trong sách hguyệt ba động trung ký có nói người có loại lông mày hình chữ “bát” (?),nam thì có thể bỏ mạng nơi đất kháchn, nữ thì thường là người bất chính.
Bạch nhãn
Chỉ mắt có nhiều tròng trắng, chủ về người có tính cách thô bạo.
Bách hội
Chỉ bộ vị nằm ở giữa đỉnh đầu. Bách hội đầy đặn chủ về nhiều phúc lộc.
Ban duẩn bộ học đường
Là một trong Bát học đường, chỉ các nếp nhăn trên trán. Nếu ngay ngắn thì tốt, nếu không là chủ về tà loạn.
Bào y tử sắc
Chỉ bào thai khi đứa trẻ chào đời có màu tía.
Cung bảo thọ
Là một trong Ngũ quan, chỉ đôi lông mày. Khoảng cách giữa hai hàng lông mày rộng rãi, dài, thanh tú hoặc như dáng trăng non mới mọc, hai đầu và đuôi mày nằm ở trong khuôn trán, làm thành cung bảo thọ.
Bắc nhạc
Chỉ núi Hằng sơn. ở đây chủ về tướng mặt, là bộ phận nằm ở phía trên của khuôn mặt.
Lưng nhược hữu trách
Khối thịt sau lưng dày độn lên trông giống như là đang mang vác đồ vật. Đây cũng chỉ về tướng quý.
Bối tướng (tướng lưng)
Chỉ bộ phận phía sau cơ thể. Trên phương diện tướng học thì lưng được xem là nền móng của thân thể. Lưng đẹp phải là lưng đầy đặn, ngay ngắn, rộng không thô tục, bằng phẳng mà tươi nhuận.
Tỵ nang lộ khổng (Lỗ mũi lộ ra ngoài)
Chỉ mũi hếch lên, mũi có lỗ lộ ra ngoài. Tướng mũi như vậy là tướng bần khổ.
Tị hạ hắc khí (dưới mũi có loại sắc khí màu đen)
Dưới mũi có một loại sắc khí màu đen chỉ điềm xui rủi, không may. Trong sách Thành Đô Ký có chép, Ai Khách Sư và một vị thư sinh cùng qua sông. Sau khi lên thuyền và xem khắp khí sắc của người trong thuyền đã nói với người cùng đi với mình rằng: “Đừng đi vội!” Sau đó hai người lên trở lại trên bờ. Ai Khánh Sư từ tốn giải thích: “Tôi thấy mười mấy người trên thuyền này dưới mũi đều có sắc khí màu đen, chẳng mấy chốc mà gặp đại nạn. Đã biết là như vậy thì cùng đi với bọn họ làm gì?” Một lúc sau, thuyền vẫn không chạy được, bỗng nhiên có một người đàn ông thần sắc cao ngạo bất phàm bước tới và dắt lừa lên thuyền. Ai Khách Sư thấy người đó lên thuyền rồi nói với người cùng đi với mình: “Chúng ta có thể đi được rồi, quý nhân ở trước mặt, không cần phải lo nữa!”. Sau khi vị này lên thuyền, thuyền liền chạy được. Đến giữa sông, gió lớn tự nhiên nổi lên, mặc dù rất nguy hiểm nhưng cuối cùng mọi người cũng đều qua sông an toàn. Người đàn ông cưỡi con lừa đó chính là Lâu Sư Đức. Về sau, Lâu Sư Đức đảm nhiệm một chức quan trong tỉnh, sau đó trở thành vị quan đảm nhận trọng trách quan trọng, nắm quyền hành trong triều.
Tỵ tướng (tướng mũi)
Trong tướng học, mũi được gọi là Thẩm biện, Trung nhạc hay Thổ tinh. Mũi nằm ở bộ phận trung tâm trên khuôn mặt, hình dáng mũi có liên quan trực tiếp đến vận mệnh giàu sang hay vấn đề phúc họa của con người. Mũi nên cao, đầy đặn, không nên nhỏ và nhọn. Màu sắc tươi nhuận thì tốt, tối ám thì bần yểu; mũi lệch, vẹo thường là dấu hiệu của tai ương, nguy hiểm.
Băng giám (gương băng)
Kinh điển tướng học là Toàn thư được phân làm bảy thiên trong đó có các chương: Chương thứ nhất là Thần cốt, chương thứ hai là Cương nhu, cương thứ ba là Dung mạo, chương thứ tư là Tình thái, chương thứ năm là Mi tu, chương thứ sáu là Thanh âm, chương thứ bảy là Khí sắc. Giống như dùng băng để làm gương, soi tận đến tận cùng tơ trời mùa thu. Toàn thư cũng giống như là gương băng vậy. Đây là hình ảnh dùng để so sánh với thuật xem tướng người.
Tật nhãn
Chỉ mắt mệt mỏi, xem như là chẳng có chút sức lực nào, giống như thể bị bệnh lâu ngày chưa khỏi. Đây là tướng mắt không đẹp, người có tướng mắt như vậy chẳng thể thọ lâu.
Bá thần nhĩ
Chỉ một loại tướng tai có đỉnh tai cao quá lông mày. Người có tướng tai như vậy bệnh tật ít mà tuổi thọ cao, tài trí hơn người.
Bạc tướng (tướng bạc nhược)
Là một trong tám tướng, chỉ tướng mạo bạc nhược. Người xinh đẹp mà không có thần thì bạc nhược yếu ớt. Tướng như vậy không phải là loại tướng đẹp, tường mỏng dễ đổ, rượu nhạt dễ chua, chỉ mỏng dễ đứt, người tướng bạc nhược cuộc sống cũng sẽ chẳng thể dài lâu.
Bất dương
Chỉ tướng mạo bình thường.
Cung Tài bạch
Còn có tên gọi khác là Tài tinh. Chỉ mũi, là một trong 12 cung. Tướng mũi có thể phản ánh sự giàu nghèo của con người.
CUNG THÁI THÍNH (cơ quan thính giác)
Là một bộ phận thuộc Ngũ quan, chỉ hai tai. Tướng tai tốt phải là tai ngay ngắn, màu sắc tươi nhuận, tai cao quá mày, vành tai rõ rệt, dái tai dày dặn, lỗ tai to rộng.
Sàm nham chi tướng (tướng mạo phi phàm)
Chỉ hình tướng đặc biệt, đây là quý tướng. Tướng này phối hợp tương ứng với lời nói và thần sắc thì sẽ là người có tài xuất chúng.
Trường đầu điểu uế (đầu dài miệng nhọn)
Chỉ cổ dài, miệng nhọn như miệng của chim. Việt Thế Gia – Sử ký chép rằng: Việt Vương là người cổ dài miệng nhọn, là người có thể cùng chung hoạn nạn, sau lại có thể cùng chung hưởng sự an lạc.
SÀO OA (tổ, hang ổ)
Đây là chỉ mũi. Hình dạng mũi giống như một cái tổ, được sánh với nhà cửa của con người, cho nên sống mũi phải ngay thẳng, đầy đặn.
Thừa tương
Là một trong mười ba bộ vị, là phần lõm xuống ở bên dưới môi dưới, vị trí này nên đầy đặn mới là tốt.
Đồi nhan
Chỉ trán nhô lên.
Xỉ tướng (tướng răng)
Là hình tướng của răng. Từ hình tướng của răng có thể đoán được tuổi thọ và tình hình sức khỏe của con người. Răng ngay ngắn, to mà khít, dài mà thẳng, nhiều mà trắng. Răng chắc khỏe là trường thọ, răng mọc lộn xộn thường là người sống xảo quyệt, hay nổi nóng, tính hung bạo nên không thọ; răng thưa thì bần hàn, răng ngắn mà lại khuyết là tướng ngu muội, răng xỉn màu khô khốc thì bệnh tật nguy khốn. Khi nói mà không hở răng là tướng sang quý, đang tuổi tráng niên mà răng rụng thì không trường thọ.
Xích mạch quán tình (mạch máu đỏ nhiều trong tròng mắt)
Cũng giống như mạch máu đỏ trong con ngươi.
Cung xuất nạp
Là một trong Ngũ quan, chỉ miệng. Đạt Ma ngũ quan thuyết chép rằng: Miệng phải vuông vắn, rộng, môi hồng, đầy đặn, mở ra thì rộng khép lại thì hẹp, hình thành nên cung xuất nạp.
Sủy cốt (đo xương)
Dùng tay để đo xương cốt nhằm đoán tính cách vận mệnh, cũng giống như dò hình tướng của xương.
Sủy cốt ma cốt (đo và dò xét hình tướng của xương cốt)
Dùng tay để dò xét hình tướng của xương cốt, đây là cách của các thầy tướng pháp mù thường sử dụng.
Xuy hỏa khẩu (miệng thổi lửa)
Chỉ hình tướng của miệng giống như đang thổi lửa, đây là tướng cô độc lạnh lẽo.
Thùy kiên nhĩ (tai rủ xuống vai)
Chỉ tai dày và lớn, tướng tai có dái tai rủ xuống tới vai.
Thùy chu triều hải (tai kéo dài xuống tới bả vai)
Chỉ tai kéo dài xuống tới bả vai, đây là điềm báo về điều phúc thọ.
Thần bất trước xỉ (môi khít không nhìn thấy được răng)
Hai môi khép lại mà không để lộ răng. Người môi khép chặt không để hở răng dễ bị người khắc hại, mang điều thị phi.
Thần tướng (tướng môi)
Tướng của môi miệng. Quan sát tướng môi có thể đoán vận mệnh sang hèn của con người. Môi miệng phải ngay thẳng, dày dặn, không nên mỏng, nên có góc cạnh, không nên nhỏ hẹp. Sắc môi phải hồng đỏ như son thì mới được giàu sang và có phúc lộc, nếu xanh xao nhợt nhạt thì gặp tai ương yểu mạng, sắc môi đen dễ mất mạng vì bệnh hiểm nghèo, người có sắc môi tía sáng thì vui vẻ ấm no, người môi nhỏ hẹp cuộc đời thường gặp nhiều điềm bất lợi, người môi mỏng nhợt nhạt thì là mệnh nghèo khốn.
Người môi trên mỏng lời nói khó tin, người môi dưới mỏng là tướng bần tiện, người hai môi đầy đặn là người trung tín, người hai môi đều mỏng là người hay nịnh hót. Dưới hai môi bị che khuất là điềm bần hàn, môi nhọn thường dễ mất mạng trong nghèo khó, người môi lệch xuống dưới là người cô đơn lạnh lẽo. Người môi nhiều vằn chủ nhiều cháu con, người môi không có nếp vằn tính tình cô độc.
Thư hùng thanh (THANH ÂM)
Tức chỉ thanh âm cao hay thấp không đều, tướng thanh như vậy là điềm chỉ sự nghèo khó.
Thông minh bộ học đường
Là một trong Bát học đường, tức chỉ hai tai.
Túc xương (hai đầu lông mày hẹp)
Xương, chỉ sống mũi. Túc xương, tức chỉ tướng hai đầu lông mày không được rộng rãi mà sát nhau.
Đới can (đội khiên)
Chỉ trên đầu có phần thịt nhô lên giống hình dấu nhân chạm trên cái khiên. Đây là dị tướng. Can chính là chỉ cái khiên.
Đới kiên
Chỉ vai rất dày nhô lên giống như cục bướu. Đây là dị tướng.
Đới mục
Mắt trợn ngược. Thường là người có đôi mắt chứa nhiều tâm sự dị thường, chí hướng khác người.
Đan phượng nhãn
Tức chỉ mắt phượng.
Đơn tê cốt
Chỉ xương từ đỉnh đầu kéo dài xuống tới ấn đường.
Đức tại hình tiên (đức hiện ra ngoài hình tướng)
Chỉ phẩm đức được tu dưỡng hiện ra cả bên ngoài hình tướng. Hình dạng là phẩm chất, đức độ là khí chất. Phẩm chất tuy là tốt nhưng phải phối hợp với đức hạnh thì mới vẹn toàn.
Đê phản nghĩ
Chỉ tai thấp và cuộn vào như cái quách (vòng thành). Thiên Tướng tai đê phản nhĩ trong cuốn Thần tướng toàn biên có nói: Tai thấp cuộn tròn như quách, thuở nhỏ cô độc, hình khắc và hao tài.
Địa phủ
Chỉ hai má và phần mặt bên dưới.
Địa các
Chỉ bộ phận cằm, là một trong 13 bộ vị. Thần dị phú nói rằng: Cằm là Địa các, dùng để xem tướng của tuổi về già. Cằm đầy đặn là tướng giàu sang, nhọn thì bần hàn. Phàm giới hạn cuối cùng của tướng người đều tại đó. Cằm là sao Thủy, thuộc Hạ đình, nếu người có mệnh Kim, Thủy thì rất tốt.
Địa khố
Chỉ hai gò má. Thần dị phú có chép: Địa khố hồng nhuận, tuổi già yên ấm tốt đẹp. Chú rằng: Địa khố là hai gò má.
Đỉnh giác (nhô lên như cái đỉnh)
Cũng được gọi là Đỉnh trĩ tam túc (ba chân vạc). Chỉ bộ phận xương trán, xương Nhật giác, Nguyệt giác đều nổi nhô lên, tạo thành hình như thế chân vạc, đây là điềm đại quý.
Đỉnh trĩ tam túc
Cũng như Đỉnh giác (xương nổi nhô lên như cái đỉnh).
Lạc nhạc
Là một trong Ngũ nhạc. Trong tướng học gọi là Tả quyền, tức gò má bên phải.
Đống lương
Tức chỉ bộ phận cổ.
Động tinh
Tức chỉ mắt người sáng, có thần thái và linh loạt.
Đâu phong nhĩ
Cũng như Phiến phong nhĩ. Tức là tai như cái quạt chắn gió.
Đấu môn (cửa đấu vào nhau)
Chỉ lông mày. Chiếu đảm kinh có nói: Đầu mày giống như hai cánh cửa đấu vào nhau.
Đấu não
Chỉ não bộ đột khởi lên có hình trạng như cái đấu, đây là dị tướng.
Độc hỏa thanh
Chỉ tiếng nói như tiếng xé lửa tàn bạo. Người có hình tướng thanh ngữ như vậy thường tâm địa bất thiện.
Đôn Hoàng Di Thư
Là sách còn lại từ thời tối cổ. Tục Tu Tứ khố toàn thư đề yếu có chép: Đôn Hoàng còn sót lại 3 cuốn sách không đầy đủ của bộ này. Cuốn thứ nhất có tự mục, từ chương thứ hai là bàn về hình mạo cho đến chương thứ 30 bàn về tay chân. Cuốn thứ hai từ chương thứ 30 bàn về tay chân thứ 18 là bàn về đầu và trán cho đến chương thứ 30 là bàn về tay chân. Cuốn thứ ba bắt đầu từ chương thứ ba là chương bàn về ngũ quan cho đến chương thứ 35 bàn về khí sắc của khuôn mặt. Căn cứ vào một câu cuối trong sách ấy nói rằng: Những nếp nhăn hay dấu vằn trên bề ngoài thân thể hợp là 36 tướng, cũng giống như 36 chương cộng lại trong sách toàn thư, gộp thêm những phần khiếm khuyết của ba cuốn ấy nữa từ chương thứ nhất đến chương thứ 36 thì là bộ sách trọn vẹn. Như tướng mày, tướng mũi, tướng nếp nhăn trên trán, tướng chỉ tay, tướng chỉ chân là bộ phận rất quan trọng của thuật xem tướng.
Với các chương ghi chép về tướng nếp nhăn của trán, tướng chỉ tay chỉ chân thì nó quả thật là bộ sách ghi chép tỉ mỉ giải thích cặn kẽ về thuật tướng. Chính vì vậy đương thời sách này được phổ biến rộng rãi, do trải qua nhiều thời đại mà nội dung của sách này có nhiều dị biệt.
Đoạt toán
Đây là thuật ngữ của Đạo giáo. Chỉ phàm những người đã từng phạm đến tội lỗi, khó có thể được thần minh bảo hộ giám sát, sẽ bị trời đất quỷ thần tiêu giảm bớt tuổi thọ. Một toán là ba ngày hoặc một ngày, ngoài ra còn có thuyết cho rằng một toán là 12 năm.
NGA KIÊN
Cũng là tên Diên kiên. Chỉ hình tướng người gánh vác. Đó là điều phân biệt với tướng tham lam, keo bẩn, cô độc và bần tiện.
Ngạch tướng
Chỉ hình tướng của trán. Tướng của trán liên quan tới sự vinh hoa tốt đẹp hay suy kiệt, giàu sang hay bần khốn. Trán ngay ngắn, đầy đặn, sáng láng, rộng thì giàu sang, trán có xương lệch thì từ nhỏ sớm gặp nhiều trắc trở.
ác tướng
Chỉ các tướng về hình thể, ngũ quan, thần sắc không được đẹp. Cụ thể có thể hình dung như sau: Đầu nhọn trán hẹp, lông mày dày, tóc như cháy sém, tai cong, lưỡi lộ, miệng rộng, môi mỏng, nhiều mạch máu trong mắt, mắt có tròng trắng nhiều hơn tròng đen, thần thái hớt hải, mặt mày xanh xám, chuẩn đầu nhọn, địa hạp khuyết. Người có hình tướng như vậy thường vô phúc vô thọ.
Nhĩ bạch vu diện (tai trắng hơn mặt)
Tức chỉ người có tai trắng hơn mặt. Trong sách Đông pha chí lâm có chép: Âu Dương Văn Trung Công như sau: Có người lúc nhỏ xem tướng ta nói rằng, tai trắng hơn mặt, lông tai, lỗ tai ở trong có mọc lông tơ, là điềm trường thọ.
Tai dày biết người thông minh
Chỉ khuôn mặt đặc biệt rộng, điều đó hiện lên ở tai dày.
Nhĩ hậu kiến tư (tai dài tới vai)
Chỉ hai tai dài rũ xuống vai. Đây là tướng giàu sang và sống thọ.
Nhĩ tức
Còn có tên gọi là Quy tức. Chỉ người khi ngủ không khí ra vào trong lỗ tai (giống như hô hấp bằng tai). Đây là chỉ điềm giàu sang, sống thọ.
Nhĩ tướng (tướng tai)
Cũng gọi là cơ quan thính giác, là bộ phận chỉ sự thông minh trong học vấn. Tai thông với tim và thận, tướng tai cũng có liên quan mật thiết với vận mệnh của con người. Trong sách Ngọc quản chiếu thần cục có chép: Tai chủ về sự thông minh sáng suốt, quán thông với não, tương ứng với thận, là một phần của tim, thận. Nếu thận khí thực thì sáng suốt thông minh, thận khí hư thì tối tăm ô trọc. Cho nên nói tai cùng với tim song hành với nhau vậy. Tai dày và ngay ngắn thì sống lâu, vành tai vượt lên trên mày là chủ về thọ, luân quách rõ ràng chủ về thông tuệ; tai dày, có hình như chữ “khẩu” (?)thì chủ về thông minh có tiền củat, tai có nhiều thịt đầy đặn người đó sinh ra được giàu có đủ đầy, trong tai có lông mao thì được thọ, bên ngoài lỗ tai rộng là người biết nhìn xa trông rộng. Tai chắc như gỗ, chủ khí chất kiên cường, tai mỏng như giấy chủ nghèo và đoản mệnh, tai cuộn và lệch thì người không có nhà cửa đất đai.
Nhị nghi (hai điều hợp chuẩn)
Nghi tức chỉ quy củ, phép tắc. Về mặt tướng học, đầu tròn giống như hình của trời thì hợp với chuẩn tắc của trời, chân vuông vắn đầy đặn giống như tướng của đất thì hợp với chuẩn tắc của đất. Sách Chiếu đảm kinh có nói: Đầu tròn là hợp quy chuẩn của trời, trời muốn cho được giàu sang; chân vuông vắn giống như đất, đất muốn cho được đầy đủ.
Phát tướng (tướng tóc)
Phát tướng là chỉ hình tướng của tóc. Về mặt tướng học người ta cho rằng, tóc nên dày và nhỏ, ngắn và suôn, đen và bóng, đẹp và có mùi hương. Nếu tóc có màu vàng thì nhiều điều khắc kỵ, tóc màu đỏ thì gặp nhiều tai ương, tóc thô cứng tính tình cứng và cô độc, tóc nhiều mà có mùi hôi thì trì trệ bần tiện, tóc như cỏ bồng tính tình xảo quyệt nghèo khổ, tóc mai ngắn thì bần tiện, tóc mai dài thì hiền hòa, hạng tuấn kiệt tóc mai dài, tính tình tốt đẹp. Nếu bên tai không có tóc thì nội tâm hiểm ác; tóc lan tới mày và trán thì gặp nhiều tai ương, tóc thô và thưa thì tiền của ít được dư giả; tóc khô thì lo nghĩ đến già.
Pháp lệnh
Đường nếp nhăn pháp lệnh tức là chỉ những đường văn hay nếp nhăn quanh hai bên cánh mũi. Nếu đường vân hay nếp nhăn đó sâu và dài, tức là chỉ người có tấm lòng trung hậu, được trường thọ; nếu vân hay nếp nhăn kéo dài đến miệng thì là tướng ác.
Phản khí
Tức chỉ người có cốt tướng và tâm thế làm phản, phản loạn.
Phản tướng
Tức là tướng phản bội.
Phản cốt
Tức là cốt tướng phản bội.
Phản vũ
Chỉ đỉnh đầu thấp, bốn bên cao.
Phương khẩu (miệng vuông)
Chỉ miệng hình vuông, rộng nhưng không lộ răng ấy là điềm phú quý.
Phong hạ
Chỉ gò má đầy đặn, ấy là phúc tướng.
PHONG MÔN
Còn có tên gọi là Mệnh môn, tức là chỉ lỗ tai. Người có lỗ tai rộng là người túc trí đa mưu, thông minh, có trí nhớ tốt.
Phong thổ khắc ứng (ứng, khắc với môi trường và phong tục tập quán)
Chỉ các nhân tố hoàn cảnh môi trường, phong tục, địa lý có ảnh hưởng đến tính cách và hình dạng của con người.
Tướng học cho rằng môi trường xung quanh, phong tục tập quán có ảnh hưởng rất lớn đến tính tình và hình dạng của con người. Những người sống chung trong một khu vực địa lý thì tướng mạo và tính cách tương đồng nhau, vậy nên khi xem xét tướng người phải nhìn nhận về vấn đề đất đai địa lý.
Phong mục sài thanh (mắt ong giọng sói)
Đôi mắt giống ong, âm thanh giọng nói như tiếng lang sói. Người có đặc điểm giọng nói diện mạo như vậy thường là người hung ác, hiểm độc.
Phong chuẩn
Tức là mũi cao.
Phượng tướng
Tức chỉ tướng người có thân hình nhỏ, mi mắt dài, trán cao thanh tú.
Phượng nhãn (mắt phượng)
Cũng có tên là Đan phượng nhãn. Chỉ người có tướng mắt thần thái thanh tú, mi dài.
Phục tê (CON TÊ GIÁC)
Hay còn gọi là Nặc tê. Người dáng hình như vậy chủ về quý hiển. Trong sách Nhân luận đại thống phú nói rằng: Nếu thấy người có cốt tướng như con tê giác nằm sẽ là một bầy tôi tốt.
Phục tê tỵ (mũi như mũi tê giác)
Tức là chỉ mũi cao ngang với trán. Đây là điềm chủ về giàu sang.
Phục tê sáp não
Chỉ phần trên của mũi có xương rộng như tê giác kéo thẳng đến phần giáp giới với tóc. Đó là tướng sang.
Phù tang cốt
Chỉ xương ở huyệt Thái dương. Xương này nên đầy đặn và rộng. Thiên Tướng đầu của sách Thần tướng toàn biên có chép: Huyệt Thái dương có xương tên gọi là xương Phù tang, chủ về giàu sang.
Cung Phúc đức
Là một trong mười hai cung, là hai bộ vị Thiên thương, Địa khố (kho lẫm của trời đất). Cung Phúc đức này nên đầy đặn và sáng láng thì tốt, không nên tối ám khuyết hãm.
Phúc thủy đức khí
Chỉ phúc giống như nước và đức như là hình dạng của đồ khí. Người có hình tướng đẹp tuy là có phúc phận tốt nhưng cần phải thụ được dung mạo và đức hạnh tài năng mới là trọn vẹn. Giới tướng thuật khi bàn về tướng cũng vận dụng quan điểm như vậy để phân biệt và suy đoán.
Phúc đường
Tức là chỉ ấn đường. Người có ấn đường rộng rãi, sáng láng thì thường gặp nhiều may mắn tốt đẹp.
Phụ cốt (xương phụ)
Chỉ xương hai bên lông mày nổi lên cao và nằm ngang kéo dài tới giáp giới với tóc. Người có xương phụ cao rộng như vậy thường đa tài, đường quan vận hanh thông, sớm gặt hái được thành tựu vinh hiển.
Phụ giác cốt
Cũng còn có tên gọi là Phụ cốt Long giác cốt, Nguyệt giác cốt (xương phụ, xương bổ trợ). Cũng là chỉ xương hai bên lông mày nổi lên cao và nằm ngang kéo dài tới giáp giới với tóc. Người có hình dạng xương cốt như vậy sớm đạt được thành công vinh hiển.
Phú tướng (tướng giàu)
Giới tướng thuật gọi đây là tướng giàu có, cơm ăn áo mặc đủ đầy. Có thể nói sự giàu sang và nghèo hèn cùng thông với nhau, nó phản ánh qua hình dung và động thái của con người. Hình dung cụ thể là: Hình dáng đầy đặn, thần thái an ổn, khí trong tiếng ấm, trán rộng, mắt sáng, khoảng cách hai chân mày rộng, tai đầy đặn, môi hồng hào, mũi thẳng, mặt vuông, lưng đầy, eo ngay ngắn, da trơn thịt mềm, răng đều, ấy chính là tướng giàu.
Phúc như thùy nang (bụng như túi đựng)
Tức là bộ phận bụng tròn, kéo dài xuống như một cái túi, ấy là tướng giàu sang.
Phúc như huyền ky (bụng như sàng treo)
Chỉ bộ phận bụng tròn và đầy đặn, ấy là tướng giàu sang.
Phúc tướng (tướng bụng)
Chỉ tướng của bộ phận bụng. Xem tướng bụng có thể đoán được giàu sang, thọ yểu. Bộ phận bụng tròn và dài, đầy đặn và rắn chắc, thế như rũ xuống dưới, da dày và nhẵn. Người có da bụng dày ít bệnh tật và giàu, người da bụng mỏng nhiều bệnh tật và nghèo, bụng mà sát phía trên thì thường là nghèo và ngu dốt. Bụng treo hướng xuống dưới, chủ về giàu sang, sống thọ. Bụng xệ rũ xuống, trí thông minh biết vận cơ trời; bụng lệch mà ngắn, sống chẳng dư giả; bụng như ôm lấy, danh tiếng muôn nơi.
Phúc thuyền khẩu (miệng như thuyền bị lật)
Chỉ góc miệng kéo xuống dưới, tướng miệng có màu môi đen và tím. Tướng miệng như vậy là điềm báo nghèo khổ.
lộc học đường
Là một trong Bát học đường, chỉ bộ phận trán. Bộ phận trán ngay ngắn, rộng rãi, sáng lạng là tốt.
cao minh bộ học đường
Là một trong Bát học đường, chỉ bộ phận đầu. Đầu ngay ngắn, tròn hoặc có hình dạng đặc biệt là tướng tốt.
Câu huyết
Chỉ bộ phận Nhân trung. Nhân trung nên ngay ngắn, sâu, dài, không nên đầy bằng. Người có nhân trung sâu và dài thì nhiều con cháu, người có nhân trung đầy bằng khắc với con cháu.
Cô Bố Tử Khanh
Nhà tướng thuật thời Xuân thu.
Cô tướng (tướng cô độc)
Một trong Bát tướng, chỉ tướng người cô độc.
Cổ tướng
Tướng này lấy hình mạo thần thái chất phát cổ xưa làm đặc điểm của quý tướng. Chiếu đảm kinh có chép: Hình dạng có bốn loại tướng… gọi là cổ, hình mạo giản dị chất phác, Khổng Tử có khuôn mặt hung dữ, đáng sợ, Mang Tử thân như cây khô.
Cốt tỵ (xương mũi)
Tức chỉ tướng mũi gầy nhỏ lộ xương. Người có tướng mũi như vậy gặp nhiều vận rủi, quan hệ không tốt với người thân, dễ phá tài.
Cốt pháp
Còn có tên gọi là cốt cách. Tức là chỉ tướng xương đặc trưng của con người. Giới tướng thuật cho rằng cốt cách của con người có ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi thọ và sự giàu nghèo quý tiện của người đó.
Cốt tướng
Cũng còn gọi là cốt tượng, là từ chỉ chung cho hình tướng và cốt cách (xương) của con người. Giới tướng thuật cho rằng cốt tướng và tính cách có liên quan đến vận mệnh con người. Ngoài ra còn có cách nói khác tương đối chuyên chỉ cốt cách hình tướng đó là tướng da, tướng thịt. Giới tướng thuật cũng cho rằng, cốt là vua, thịt là bầy tôi, cốt cách, hình tướng chiếm vị thế chủ đạo trong thân thể con người.
Quái tướng
Tức chỉ người có hình dạng quái dị, nhưng đó lại là quý tướng. Trong Chiếu đảm kinh có chép: Hình có bốn tướng (tốt), đứng đầu là quái hình trạng bên ngoài quái dị như Lư Kỷ Quỷ có diện mạo xanh xám.
Cung Quan lộc
Là một trong 12 cung, nằm ở trên ấn đường, tức giữa trán. Thiên Thập nhị cung trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Vị trí cung Quan lộc nằm trên và ngay chính giữa trán, rõ ràng sáng sủa thì người đó tài năng hơn người.
Cung học đường
Là một trong Tứ học đường, chỉ hai mắt của con người. Thiên Tứ học đường luận trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Mắt chính là cung Học đường, nên dài và trong trẻo, chủ về quan chức.
Quang đại bộ Học đường
Là một trong Bát học đường, chỉ ấn đường.
Quảng đức bộ Học đường
Là một trong Bát học đường, chỉ lưỡi. Lưỡi nên ngay ngắn và dày, không nên mỏng và ngắn. Người mà có lưỡi to thì giàu sang; lưỡi đỏ như son thì thọ lâu và giàu sang.
QUY NHÃN (mắt rùa)
Chỉ mắt giống mắt rùa. Người có Quy nhãn là tướng sang.
Quỷ sắc
Chỉ mặt mày khí sắc tối tăm đen xám. Đây là tướng không đẹp, thường là mệnh nghèo khổ, buồn lo sống cho qua ngày.
Quỷ yểm thiên la (người như có quỷ ám)
Là một trong mười Thiên la. Tức là chỉ cử chỉ khinh bạc, trôi nổi, không có khí sắc, thần thái không tốt.
Quỷ u
Chỉ mặt mày như cây khô, thần thái tiêu tan, hình tướng sắc khí tối tăm.
Quỷ táo
Tức là chỉ tướng người có gân cốt yếu ớt, nhẹ hẫng. Cụ thể tình hình như sau: Gân không buộc xương, mạch không giữ thịt, đứng ngồi nghiêng ngã giống như người không có chân tay vậy.
Quý tiện định cách Ngũ hành tướng thư (sách tướng định đoán tướng cách giàu nghèo theo Ngũ hành)
Là sách tướng thuật thời cổ đại. Bản cũ đề là của Viên Thiên Cương soạn và sao chép lại. Sách này bàn đến sự dịch chuyển bộ vị của 12 chương trong bốn mùa xuân hạ thu đông, mỗi chương như vậy đều sinh cứ ở đầu, chân, tay của Hoàng Đế, rất kỳ lạ. Ngoài ra còn có ghi chép về tướng người, tháng giêng sinh ra con người, tháng tư thụ nhận thai.
Quý cốt
Tức là hình tướng giàu sang. Trán có xương hướng lên đỉnh đầu, mắt sáng, ấy là điềm tướng sang. Ngoài những đặc điểm trên còn có các đặc trưng khác: xương thanh thoát, da nhẵn, lưng dày thân dài, mũi thẳng, tai dài, mày dài, miệng vuông, trán rộng đầy đặn, thần thái sắc khí sáng sủa và giọng nói trong trẻo, đứng ngồi an ổn…
QUÁ DI (má to quá cỡ)
Tức là má to, mặt có má to thậm chí sau tai còn có thể thấy được má.
Hải khẩu
Tức là chỉ miệng vừa to vừa sâu. Đây là tướng đẹp, Khổng Tử cũng có tướng miệng như vậy.
Hợp tướng chưởng
Tức là chỉ tướng tay và tướng hình thể tương xứng nhau. Thiên Luận thủ – Hợp tướng cách trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Người gầy tay gầy, người mập tay đầy, người to tay to, người nhỏ tay nhỏ, người thanh tay thanh, người thô tay thô, mặt lớn tay lớn, người đẹp tay mềm. Nếu mềm và dày, hồng nhuận, thanh tú, sáng láng thì chủ về giàu sang, thông minh.
Hà độc
Tức sông Hoàng Hà. Trong tướng học dùng để chỉ hai mắt. Thiên Tứ độc sách Thần tướng toàn biên có chép: Mắt chính là Hà độc, sâu tức là thọ, nhỏ dài là sang, sáng là thông minh, không sóng là đoản mệnh, đục là gặp nhiều điều trì trệ, tròn là số đoản mệnh, mắt trên to dưới nhỏ là quý tướng.
Hà mục
Chỉ trên và dưới vành mắt nên dài và bằng phẳng là tốt.
Hiết tỵ (mọt gỗ)
Chỉ hình trạng của mũi giống như con mọt gỗ. Đây là tướng mũi rất xấu.
Hạc cốt (xương hạc)
Chỉ cốt cách thanh mảnh hay thân thể gầy mong manh.
Hạc hình (mình hạc)
Là một loại hình tướng người giống như cầm thú. Chỉ hình tướng cổ dài, đầu ngắn, thân nhẹ chân dài. Đây là loại tướng thanh cao sang quý. Cụ thể như sau: vùng thương khố bị hãm, mi mắt rũ xuống, thân thể nhẹ, sải chân rộng, vùng hạ đình dài, tính tình ôn hòa dịu dàng, được nhiều tiếng khen.
Hắc chí (nốt như hạt cơm có màu đen, thường gọi là nốt ruồi)
Tức nốt có màu đen. Giới tướng thuật thường xem vị trí và hình dạng của những nơi xuất hiện nốt đen này và dựa vào đó để đoán định tướng người phúc họa giàu nghèo. Trong những nốt đen này đặc biệt xem trọng về tướng pháp của nốt. Nốt mọc trên mặt của nam hay nữ cũng đều có sự cát hung khác nhau.
Hắc tử tướng (tướng của nốt ruồi)
Chấm đen, tức là nốt, bao gồm cả nốt đỏ và nốt đen. Con người có nốt đen này giống như núi rừng sinh cây cỏ, đất đai có gò đồi vậy. Núi đẹp ắt sinh ra cây cỏ tốt, địa suy ắt sinh ra đồi xấu. Người có phẩm chất tốt thì sinh ra nốt đen biểu hiện sự sang quý, người có phẩm chất ô trọc thì sinh ra nốt đen chỉ sự bần tiện. Tướng học thường xét các vị trí và số lượng nốt đen để đoán cát hung và giàu nghèo của con người. Nói tóm lại, nốt đen mọc trên các vị trí hiển lộ ra ngoài thì nhiều điềm không tốt, mọc ở các vị trí che khuất thì tốt. Sắc của nốt đen lánh hoặc đỏ như son thì mới tốt; có nốt đỏ chủ thường hay đấu khẩu, có nốt trắng chủ thường hay lo lắng về tai ách, người có nốt vàng thì chủ thường hay quên, thất thoát.
Hầu nhĩ (tai khỉ)
Là tướng lỗ tai nhỏ hẹp, nhọn và nghiêng về phía trước. Người có tai khỉ thường là người gian tà, thâm hiểm.
Hầu thực (ăn như khỉ)
Lúc ăn giống như tướng khỉ ăn, ăn mà không nhai. Người ăn như khỉ thường thô bỉ, keo bẩn và gian tà.
Hậu tướng (tướng đôn hậu)
Tức là chỉ người có tướng mạo đôn hậu.
Hổ nhĩ (tai hổ)
Chỉ bộ phận bên ngoài hai gò má nghiêng.
Hổ cốt (xương hổ)
Tức chỉ phần xương từ khuỷu tay đến cổ tay, nên ngắn và cứng rắn mới là hình tướng tốt.
Hổ cố (hổ nhìn)
Chỉ người mà tướng mắt có thần thái dũng mãnh, uy nghiêm
Hổ khẩu (miệng hổ)
Chỉ miệng rộng lớn đồng thời như có quyền thuật. Người có tướng miệng như vậy thì chủ về giàu sang.
Hổ mi (mày hổ)
Chỉ lông mày dày rậm. Sách Đạt ma ngũ quan luận chép: Mày rậm tóc dày thường là người gặp nhiều trì trệ vướng mắc.
Hổ mục (mắt hổ)
Chỉ vành mắt lớn, chỉ tướng mắt vàng và uy nghiêm. Sách Thần dị phú có chép: Mắt lấy mắt hổ làm quy chuẩn.
Hổ thôn long (hổ nuốt rồng)
Là một cách nói để biểu thị xương khuỷu tay, xương cổ tay dài tới cánh tay. Ngoài ra còn một cách nói khác dùng để chỉ bàn có ngón tay dài.
Hổ vẫn (mép hổ)
Chỉ hổ nghiến răng và phẫn nộ, chỉ hình tướng không biểu lộ nụ cười. Sách Thần dị phú có chép: Đi như sói, nghiến răng như hổ, cơ mưu thâm sâu, tâm dạ khó lường.
Hổ hình (hình tướng của hổ)
Chỉ hình tướng đầu to cổ rộng, mũi đầy đặn miệng vuông vức, đi đứng thong thả. Đây là một loại người có hình tướng giống cầm thú.
Hoài độc (độc có nghĩa tương tự với sông)
Chỉ sông Hoài, là một trong Tứ độc. Xét về tướng mặt dùng để chỉ miệng – Miệng nên ngay ngắn vuông vức, rộng.
Hoàng Phủ Ngọc
Là một thuật sĩ thời Bắc Triều rất am hiểu và tinh thông tướng thuật.
Hỏa sắc (màu sắc như lửa)
Chỉ khí sắc trên mặt có màu đỏ hồng, giống như lửa. Trên phương diện tướng học thi người mà có sắc mặt như vậy ắt không trường thọ.
Hỏa thanh (tiếng lửa)
Cũng như hỏa âm (âm thanh của lửa, tiếng lửa khi cháy).
Hỏa tinh
Chỉ đầu trán.
Hỏa hình (hình của lửa)
Tức chỉ một trong hình tướng của Ngũ hành. Sách Thần dị phú có chép: Người có Hỏa hình thì sắc bén, trên nhọn như lửa đang cháy nóng, trong có sắc đỏ và khí khô. Hoặc là chỉ người quá khoe khoang, phù phiếm.
Hỏa âm
Tức chỉ một trong Ngũ âm. Còn gọi là hỏa thanh (tiếng lửa). Thiên Luận ngũ âm trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Như tiếng lửa bốc cháy phẫn nộ, như tiếng réo của lửa.
Kê mục (mắt gà)
Là một loại hình tướng người giống cầm thú. Chỉ tướng mắt vàng, tròn và nhỏ. Người có mắt như mắt gà tính tình gấp gáp vội vàng và thường có cá tính phóng túng, phong lưu đa tình.
Tật bệnh thiên la
Là một trong mười Thiên la, chỉ mặt có sắc vàng. Đây là sắc khí không tốt.
Cung Tật ách
Là một trong 12 cung. Tức là Sơn căn, vị trí nằm dưới ấn đường. Sơn căn đầy đặn là điềm phúc thọ dài lâu. Nếu Sơn căn có tỳ vết hoặc khuyết lõm thì thân thể sẽ có nhiều bệnh tật. Nếu Sơn căn lệch hoặc khí sắc tăm tối thì suốt đời khổ cực, tai ách liên miên.
Kế đô
Tức là chỉ sao Kế Đô. Chỉ mày phía bên phải, là một trong Nhị thập bát tú (28 sao). Mày bên phải ngay ngắn đều bằng, ấy là điềm về vợ con được an lành.
Tể độc
Tức sông Tể, là một trong Tứ độc, chỉ mũi. Mũi nên đầy đặn, tròn và sáng, không hếch không lộ.
Gia uế
Chỉ tướng miệng nhọn và nhô dài như mõm lợn, là hình tướng không đẹp. Gia, tức là chỉ con lợn. Mắt híp chỉ thần nhãn hỗn loạn, là mắt không có sức lực, giống như là mắt muốn nhắm. Đây là điềm báo yểu mệnh.
GIAN MÔN
Bộ vị này chính là cung Thê thiếp, là một trong 12 cung. Chỉ đuôi mày, hai bên khóe mắt.
GIAN DÂM THIÊN LA
Là một trong mười Thiên la. Sách Thần tướng toàn biên có chép: Mắt ướt và nhìn liên láo thường là người có tính cách phong lưu, đa tình.
QUAN GIÁM SÁT
Là một trong Ngũ quan, chỉ hai mắt. Mắt nên ẩn chứa mà không lộ, trắng đen rõ ràng, con ngươi đoan chính, ánh mắt nhìn xuyên thấu tâm can, sắc sảo.
Kiếm my (mày kiếm)
Ý chỉ là hình dáng của mày như kiếm. Người có mày kiếm vừa có quyền lại vừa có khả năng lập nên sự nghiệp, ắt là quý nhân. Ngoài ra còn chỉ gò xương mày như kiếm, đây là điềm chỉ người gian ác, cường bạo.
Giang độc
Chỉ sông Trường Giang, ở đây dùng để chỉ hai tai. Thiên Tứ độc trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Tai là Giang độc, rộng rãi mà sâu thâm, có vành trong bổ trợ, ngay ngắn ấy là điềm thông minh, gia nghiệp không bị phá tán.
Tướng quân cốt (xương tướng quân)
Là một trong chín loại xương, chỉ vận cốt đầy đặn, cao ngang bằng tai. Đây là cốt tướng chỉ tướng sang.
GIAO MY (MÀY GIAO)
Tức chỉ hai đầu lông mày giao nhau. Cũng còn gọi là giao đầu, liên my (mày nối liền nhau). Đây là điềm tướng vô thọ vô lộc.
Kết hầu
Là một trong Ngũ lộ. Chỉ xương cổ lồi lộ, sáng và tròn trịa. Người có xương cổ như vậy có thân nhân thường ly tán, cốt nhục phân lìa.
Tiệt giản tỵ (mũi như ống tre bị cắt)
Chỉ tướng mũi có vùng chóp mũi như ống tre bị cắt. Đây là điềm tướng cả đời được áo cơm đầy đủ.
Kim thành cốt
Chỉ người có tướng cốt mà xương nằm trên ấn đường kéo dài tới đầu tóc.
Kim đới sát
Chỉ tướng mày thưa đậm không rõ rệt, đầu và cuối chân mày có lông mọc ngược hay nhọn đâm vào thịt.
KIM PHÚC
Chỉ vùng trên của môi. Nên mỏng và có thể che được phần dưới của môi mới tốt. Nếu có nhiều vân và nếp thì tượng trưng cho người có nhiều con cháu hiếu thuận.
Kim quỹ
Chỉ tướng mắt có vùng dưới của mắt đầy đặn như ngón tay để nằm ngang, còn có tên là Ngọa tàm (con tằm nằm).
Kim quỹ
Chỉ hai cánh mũi, tức là Lan đài và Diên úy. Hai bộ vị này nên sáng hồng mới tốt, không nên tối tăm nhợt nhạt.
Kim lũ
Chỉ các nếp pháp lệnh quanh hai cánh mũi. Đường văn pháp lệnh này nếu hiển lộ theo chiều thuận thì tốt. Nếu ngoằn ngoèo mà không hiển lọ, loạn nghịch hoặc chạy kéo dài đến miệng đều là điềm không trường thọ.
KIM THANH (giọng nói)
Còn có tên gọi là Kim âm, là một trong Ngũ quan. Kim thanh nên hài hòa và trong trẻo.
KIM TINH
Là một trong Ngũ quan, chỉ tai trái.
KIM HÌNH
Là một trong Ngũ hành hình tướng. Sách Chiếu đảm kinh có nói: Kim hình vuông vức bằng phẳng ngay thẳng, hình tướng này nằm ở gò má trong vùng tọa lập của âm thanh lời nói.
KIM ÂM
Cũng có tên là Kim thanh, là một trong Ngũ quan. Sách Chiếu đảm kinh có chép: Kim âm vận dài hơi hướng trong trẻo, xa nghe thấy rõ ràng mượt mà ấy mới sang, còn nếu the thé thì là kẻ bần tiện.
Kim tiệt
Chỉ vùng dưới môi. Trên phương diện tướng học thì vùng dưới môi nên đầy đặn, để che cho môi trên.
KINH NHÃN
Chỉ tướng thần thái của mắt luôn gấp gáp, kinh hãi. Người có tướng mắt như vậy là tướng đoán mệnh.
Tỉnh táo
Chỉ lỗ mũi.
Cảnh tướng (tướng cổ)
Cũng giống như hạng tướng (tướng cổ).
Cửu thành chi thuật
Chỉ chín loại đặc trưng về phương diện tinh thần khí chất của con người đó là: Tinh thần, hồn phách, hình dáng dung mạo, sắc khí, động tác cử chỉ, hành động, cách nhìn nhận, tài trí, đức hạnh. Phàm thì thần thái phân minh là thành thứ nhất, thần thái thanh nhàn là thành thứ hai, dáng mạo an ổn là thành thứ ba, sắc khí sáng sủa là thành thứ tư, hành vi cử chỉ rõ ràng là thành thứ năm, hành động có hàm nghĩa là thành thứ sáu, cách nhìn nhận trong sáng ngay thẳng là thành thứ bảy, tài trí ứng phó nhanh nhẹn là thành thứ tám, đức hạnh, có phép tắc là thành thứ chín. Loại thành ít hay nhiều cũng đều đại diện cho số mệnh nhiều hay ít phúc lộc. Thông thường mà nói: Chín thành, tám thành thì là hạng được tôn kính trên thảy, năm thành sáu thành là hạng ở giữa, ba thành bốn thành là hạng có phẩm cách, một thành hai thành là hạng có một chút vẻ vang. Có được một trong các thành ấy cũng đã là tốt, nếu không có thành cũng không có cốt cách thì cả đời trầm luân, chìm nổi.
Cửu cốt
Chỉ bộ phận đầu và chín loại tướng cốt có liên quan đến vận mệnh của con người. Trong sách tướng Nguyệt ba động trung ký có chép: Gọi là Cửu cốt ấy là, một là Quyền cốt (xương gò má), hai là Dịch mã cốt (xương Dịch mã), ba là Tướng quân cốt (xương Tướng quân), bốn là Nhật giác cốt (xương Nhật giác), năm là Nguyệt giác cốt (xương Nguyệt giác), sáu là Long cung cốt (xương Long cung), bảy là Thần ngao cốt (xương Thần ngao), chín là Long giác cốt (xương Long giác).
Cửu ác tướng (chín tướng xấu)
Một là diện mạo xấu xí, xương gò má cao thẳng. Hai là yết hầu và răng lộ ra ngoài, khắc với chồng. Ba là không có chuyện gì cũng gây tiếng thị phi, thường biểu hiện ở đầu tóc rối như cỏ bồng. Bốn là không khéo gìn giữ nhà cửa, biểu hiện ở cử chỉ ngạo mạn, nhìn như chuột nhìn. Năm là vì bần tiện mà thần thái bấn loạn, biểu hiện ở hai mày đậm và giao nhau. Sáu là ganh ghét với họ hàng người thân, biểu hiện ở mũi thấp và có vằn nếp. Bảy là khắc hại con trai, biểu hiện ở thân thể suy nhược, mắt trắng dã. Tám là đa nghi tâm gian ác như lang sói, biểu hiện ở tiếng nói hung bạo và giống giọng đàn ông. Chín là tâm tính cứng cỏi, hung bạo, khó có thể đưa vào nền nếp, thường biểu hiện ở nốt ruồi dưới cổ mọc râu.
Cửu thiện tướng (chín tướng tốt)
Chín tướng tốt ở phụ nữ có thể hình dung là: Đầu tròn trán bằng là cái tốt thứ nhất, xương nhỏ da trơn là cái tốt thứ hai, môi hồng răng trắng là cái tốt thứ ba, mắt dài mày thanh là cái tốt thứ tư, ngón tay đầy đặn, vân tay nhỏ như tơ là cái tốt thứ năm, âm thanh trong như nước là cái tốt thứ sáu, cười nhưng không lộ răng là cái tốt thứ bảy, động tác đi đứng nằm ngồi đoan trang là cái tốt thứ tám, thần thái thanh nhàn, da dẻ hồng tươi là cái tốt thứ chín.
Cửu châu đảo (chín đảo)
Cửu Châu đảo vốn chỉ Ký Châu, Dương Châu, Thanh Châu, Ung Châu, Dự Châu, Kinh Châu, Từ Châu, Lương Châu, Duyện Châu. Tướng học dùng những thuật ngữ này để chỉ đó là các bộ vị: dưới môi, trên ấn đường, gò má phải, dưới lúm đồng tiền bên trái, sống mũi, mắt trái, dưới đuôi chân mày, dưới đuôi chân mày mắt phải, gò má trái, dưới lúm đồng tiền bên phải.
Sách Thần tướng thiết quan đao có chép: Cửu châu đảo là chín đảo. Trán từ trái qua phải, không ngoằn ngoèo thì không bại tuyệt, hình dạng như lá gan che lấp là tốt, tám điều tốt đó là từ chóp mũi có thể nhìn thấy được tám phương mà không có nơi nào nghiêng lệch thì là tốt.
Tửu thực thiên la
Là một trong mười Thiên la. Chỉ sắc mặt trắng trơn, giống như là có mỡ, đây là tướng sắc mặt không được tốt.
Cự kiên
Chỉ xương vai to quá cỡ.
Cự sa cốt
Chỉ xương sườn ở hai bên rãnh của tai nhô lên. Đây là tướng sang.
Cự tướng
Chỉ tướng sang.
Cứ xỉ (răng cưa)
Chỉ tướng răng có hình dạng trên nhọn dưới to, giống như răng cưa. Người có tướng răng như vậy vừa giàu vừa thọ.
GIANG THI SÁT
Là một trong Ngũ ác sát, tức chỉ mắt khô vàng, ngủ không khép miệng.
Hài tướng
Tức bộ phận dưới cằm, còn có tên gọi là Địa các, Bắc nhạc. Bộ vị này liên quan tới vận khí về già của con người. Bộ phận này nhọn mỏng thì tuổi xế chiều thê lương, tật bệnh nhiều.
Khẩu đại dung quyền
Há mồm có thể nuốt được cả cái nắm tay (ý chỉ người miệng rộng). Đây là điềm về mệnh giàu sang, sống thọ.
Khẩu đức
Từ hình dáng của miệng có thể đoán được họa phúc cát hung, vận thế của người. Miệng là cửa của lời nói, có liên quan tới điều thị phi tiếng tăm, là nơi để ăn uống, là cánh cửa sổ của tâm hồn.
Khẩu tặc
Là tướng đối nghịch với khẩu đức. Chỉ tướng người thích bàn luận chuyện thị phi, phỉ báng người khác.
Khoái Thông tướng bối
Xuất phát từ điển cố trong Hoài dương hầu liệt truyện thuộc Sử ký: Có người nước Tề tên là Khoái Thông biết quyền lực trong thiên hạ đều rơi vào tay Hàn Tín, muốn ràng buộc và kích động Tín. Thông nói: “Mặt của tướng quân, bất quá chỉ được phong hầu, có điềm nguy hiểm bất an. Sau lưng tướng quân, người sang quý thì có nhưng không thể tin!”. Khoái Thông là người có tài biện thuyết vô song, khéo dùng miệng lưỡi phân tích lợi hại, từng làm mưu sĩ cho Hàn Tín, tích cực khuyên Hàn Tín làm phản.
Lan đài
Chỉ cánh mũi bên trái. Còn có tên là Kim quỹ, Tiên khố. Lan đài (cánh mũi trái) cùng với Diên úy (cánh mũi phải) ngay ngắn đầy đặn là tốt. Nếu hai bên cánh mũi đầy đặn sáng sủa, gia sản của cải ngày thêm nhiều, học rộng nhiều tài cán.
Lang cố
Chỉ mặt nhìn ngoái lại phía sau mà không cử động, giống như chó sói vậy. Người có tướng như vậy thì hung ác như sói.
LANG HÀNH
Chỉ tướng khi đi mà đầu luôn ngoái lại phía sau. Người đi giống tướng sói đi tâm địa khó lường, hung hiểm.
Lao ngục thiên la
Cũng giống như Hình ngục thiên la.
Lệ đường
Còn có tên là cung nam nữ, chỉ vùng dưới mí mắt. Vùng lệ đường này nên đầy đặn mà không nên sâu hãm.
Lịch huyết đầu
Chỉ sắc mặt của kẻ không có tính người, đây là tướng hung.
LIÊN MY
Còn có tên gọi là Giao my, Liên đầu (hai mày giao nhau, nối liền nhau). Chỉ hai đầu của chân mày sáp vào nhau, là một loại dị tướng.
Kiểm bạc cố tốc (má nhọn ngoái nhanh)
Từ dùng để chỉ hai gò má nhọn, thần thái của mắt cũng không đủ nghiêm trang đoan chính.
Lưu xa vận khí
Tức chỉ vận thế mỗi năm của từng người. Giới tướng thuật cho rằng có thể dựa vào 3 bộ vị trên khuôn mặt để dự đoán vận khí mỗi năm của con người, mỗi một bộ vị làm chủ tình hình vận khí của một năm.
Liễu trang tướng pháp
Là sách tướng thuật thời xưa. Đây là một trong những sách tướng thuật đang được lưu hành hiện tại.
Lục đại
Chỉ tướng các bộ vị như đầu, mắt, miệng, tai, bụng, mũi tuy lớn nhưng không đẹp. Thiên Tướng lục đại sách Thần tướng toàn biên có chép: Đầu tuy to nhưng trán không nhô, mắt tuy to nhưng không có thần thái tinh anh; mũi tuy to nhưng sống mũi không vững chãi; miệng tuy to nhưng âm thanh ẻo lả; tai tuy to nhưng không có luân quách; bụng tuy to nhưng trướng lên phía trên chứ không giống như đeo túi.
Lục ác
Chỉ sáu loại tướng không đẹp đó là mắt, môi, cổ họng, đầu, thân, dáng đi. Thiên Tướng lục ác của sách Thần tướng toàn biên có chép: Một là mắt bằng nhìn thẳng, không thay đổi, chỉ người nội tâm gian ác; hai là môi không che hết răng (răng lộ), chủ tính không khoan hòa, khó có thể giao tiếp; ba là cổ họng, chủ về khắc kỵ với vợ con, hay rước vạ vào thân; bốn là đầu nhỏ, chủ bần tiện và đoản mệnh; năm là tam đình không bằng nhau, chủ về nghèo khó; sáu là đi đứng như chạy, chủ về sự bôn ba vất vả.
Lục phủ
Lục phủ là chỉ Thiên đình, hai xương Nhật cốt, Nguyệt cốt là Thiên phủ, hai gò má là Nhân phủ, vùng Địa các bên má là Địa phủ. Nói cụ thể là, vị trí của hai vùng Thiên phủ chính là hai xương bổ trợ (phụ cốt), đồng thời bao quát cả vùng Thiên thương, tức là khu vực giao thoa giữa trán và đầu tóc. Vị trí của hai vùng Nhân phủ nằm tại hai bên gò má, đồng thời bao quát khu vực từ Mệnh môn đến Hổ nhĩ. Vị trí của hai vùng Địa phủ nằm ở hai bên xương má, cũng bao quát cả vùng Địa khố.
Lục cực (sáu cực)
Chỉ các bộ vị như đầu, trán, mắt, mũi, miệng, tai đều nhỏ và không đẹp. Thiên Luận nam nữ ngũ quan trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Đầu nhỏ là cực thứ nhất, không nhận được khí lực của trời; trán nhỏ là cực thứ hai, không nhận được khí lực của cha mẹ; mắt nhỏ là cực thứ ba, không có tri thức rộng; mũi nhỏ là cực thứ tư, lao động không nghỉ ngơi; miệng nhỏ là cực thứ năm, không đủ cơm áo; tai nhỏ là cực thứ sáu, số mệnh khó lường.
Lục tiện
Là một trong sáu loại tướng về trán, não, lưng, âm thanh, mũi, mắt không đẹp. Trán khuyết hãm, thiên trung mỏng là tướng bần tiện thứ nhất, lưng và não mỏng là tướng bần tiện thứ hai, âm thanh giọng nói the thé là tướng bần tiện thứ ba, tai mắt láo liên là tướng bần tiện thứ tư; mũi gãy, thấp là tướng bần tiện thứ năm, mắt không có thần thái là tướng bần tiện thứ sáu.
Lục tước
Chỉ sáu bộ vị là mày, trán, mắt, mũi, miệng tai có hình tướng không đẹp. Thiên Tam nhị không bát tước cách trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Mày không ra mày, trán không nhô, mắt không có thần thái, mũi không có sống mũi, miệng không có góc cạnh, tai không có luân quách.
Lục tiểu quý
Chỉ sáu bộ vị là mắt, tai, miệng, mũi, bụng, eo, thân tuy nhỏ nhưng sang quý. Thiên Tướng lục tiểu quý trong sách Thần tướng toàn biên có chép: Trán nhỏ và bằng phẳng, mắt nhỏ nhưng tinh anh, mũi nhỏ nhưng có sống mũi ngay ngắn, tai nhỏ nhưng hướng lên thái dương, bụng nhỏ nhưng hướng xuống dưới, miệng nhỏ nhưng hồng và thanh, eo nhỏ nhưng tròn, thân nhỏ nhưng tam đình đều đặn. Trên đây đều là tướng quý và thọ.
Lục diệu
Tức là ấn đường, Thái dương, Nguyệt bột (sao chổi), La hầu, Kế đô, Tử khí. Trong tướng học dùng để phân biệt mắt trái, mắt phải, sơn căn, mày trái, mày phải, ấn đường.
Long phụng chi tư (dáng điệu như rồng như phượng)
Dùng để xưng tụng dáng mạo của bậc Đế vương.
Long cung cốt
Chỉ xương vành mắt tròn và nhô lên. Đây là tướng sang quý.
Long cốt
Chỉ xương từ cánh tay tới khuỷu tay. Nên dài và to thì tốt, ngoài ra còn dùng chỉ xương Nhật giác cốt và Nguyệt giác cốt. Những xương này to thì đường quan lộ hanh thông thuận lợi, có thể có được chức vị cao.
Long hổ khí
Chỉ người có khí phách cao quý của bậc Đế vương.
Long giác cốt
Còn có tên gọi là Phụ giác cốt (xương phụ trợ). Chỉ xương ở hai chân mày nhô lên và nằm ngang kéo dài. Nếu xương này phát triển thì là tướng sang quý.
LONG TÌNH
Còn có tên gọi là Long đồng (mắt rồng). Chỉ tướng mắt kỳ dị tức mắt giống như ngọc treo, long lanh. Tướng mắt như vậy là chủ về cực kỳ sang quý.
Long mục phụng tình (mắt rồng, mắt phượng)
Đây là tướng mắt cực kỳ sang quý. Tương truyền vào thời Đường có vị danh thần là Phòng Huyền Linh có tướng mắt như vậy.
Long đình
Chỉ bộ vị Thiên đình nhô cao rộng. Đây là tướng quý.
Long đồng phụng cảnh (mắt rồng cổ phượng)
Đây là một trong các dị tướng của nữ giới.
Long thôn hổ (rồng nuốt hổ)
Chỉ xương cánh tay thô dài kéo đến khuỷu tay, cổ tay, ngón tay dài đến lòng bàn tay. Đây là tướng sang.
LONG TÊ
Chỉ xương dưới mặt nhô lên và nối liền với sống mũi. Đây là tướng sang quý. Bát tướng
Trong tướng học chỉ tám loại tướng cách. Thiên Quan nhân bát tướng pháp sách Thần tướng toàn biên chép: Một là uy, tôn nghiêm gọi là uy. Hai là hậu, tướng mạo phúc hậu, đầy đặn gọi là hậu. Ba là thanh, thần thái đẹp đẽ gọi là thanh; thanh mà không hậu thì ắt là gần chỗ bạc. Bốn là cổ, khí cốt nổi trội gọi là cổ; cổ mà không thanh thì gần chỗ thô tục. Năm là cô, cô tức là hình thể xương cốt lạnh lẽo cô độc, xương vai dài mà hướng lệch lên phía sau não, ngồi như vẹo một bên, đi như mắc vướng cái gì, giống như chỉ có một con hạc bên mép nước, trong đó hai bên là con cò. Sáu là bạc, bạc tức là thân thể dung mạo suy nhược, hình thể nhẹ hẫng, khiếp sợ, sắc hôn ám, thần khí lộ mà không ẩn, như một chiếc thuyền lá trôi dật dờ trên sóng lớn. Bảy là ố, hình thể dung mạo hung hăng ngoan cố như thể là rắn với chuột, sói với lang, hoặc là tính tình hung bạo, thần thái khiếp đảm, xương cốt tổn thương khí chương bị phá, đều chủ về sự hung bạo, không đầy đủ để có hình tướng đẹp. Tám là thô tục, thô tục tức là hình mạo hôn trọc, như là chìm trong lớp bụi.
Bát học đường
Thứ nhất là Cao minh bộ học đường, tức chỉ đỉnh trán, căn cứ vào đó mà xem đầu não, trí tuệ. Thứ hai là Cao quảng bộ học đường, tức chỉ góc trán, căn cứ vào đây để xem đầu não, trí tuệ và sự nghiệp. Thứ ba là Quang đại bộ học đường, tức ấn đường, nhìn vào đây để đoán việc quan lộ và thọ mệnh. Thứ tư là Minh tú bộ học đường, tức chỉ đôi mắt, dựa vào đây để xem xét quan lộ, chức vị, quyền cao hay thấp, lớn hay nhỏ. Thứ năm là Thông minh bộ học đường, chỉ lỗ tai, căn cứ vào đây để xem sự thông minh và danh tiếng. Thứ sáu là Trung tín bộ học đường, tức chỉ răng, căn cứ vào răng để xem sự tín hiếu và đức độ lời ăn tiếng nói. Thứ bảy là Quảng đức bộ học đường, tức chỉ đầu lưỡi, căn cứ vào đây để xem đạo đức và chương tháo. Thứ tám là Ban duẩn bộ học đường, tức chỉ lông mày, căn cứ vào đây để xem sự thọ yểu.
Bát tự mi
Mày như hình chữ bát (?),hướng ra bên ngoài chếch xuống dưới. Theo tướng học thì người có loại mày này là tướng vô phúc. Trong sách hguyệt ba động trung ký có nói người có loại lông mày hình chữ “bát” (?),nam thì có thể bỏ mạng nơi đất kháchn, nữ thì thường là người bất chính.
Bạch nhãn
Chỉ mắt có nhiều tròng trắng, chủ về người có tính cách thô bạo.
Bách hội
Chỉ bộ vị nằm ở giữa đỉnh đầu. Bách hội đầy đặn chủ về nhiều phúc lộc.
Ban duẩn bộ học đường
Là một trong Bát học đường, chỉ các nếp nhăn trên trán. Nếu ngay ngắn thì tốt, nếu không là chủ về tà loạn.
Bào y tử sắc
Chỉ bào thai khi đứa trẻ chào đời có màu tía.
Cung bảo thọ
Là một trong Ngũ quan, chỉ đôi lông mày. Khoảng cách giữa hai hàng lông mày rộng rãi, dài, thanh tú hoặc như dáng trăng non mới mọc, hai đầu và đuôi mày nằm ở trong khuôn trán, làm thành cung bảo thọ.
Bắc nhạc
Chỉ núi Hằng sơn. ở đây chủ về tướng mặt, là bộ phận nằm ở phía trên của khuôn mặt.
Lưng nhược hữu trách
Khối thịt sau lưng dày độn lên trông giống như là đang mang vác đồ vật. Đây cũng chỉ về tướng quý.
Bối tướng (tướng lưng)
Chỉ bộ phận phía sau cơ thể. Trên phương diện tướng học thì lưng được xem là nền móng của thân thể. Lưng đẹp phải là lưng đầy đặn, ngay ngắn, rộng không thô tục, bằng phẳng mà tươi nhuận.
Tỵ nang lộ khổng (Lỗ mũi lộ ra ngoài)
Chỉ mũi hếch lên, mũi có lỗ lộ ra ngoài. Tướng mũi như vậy là tướng bần khổ.
Tị hạ hắc khí (dưới mũi có loại sắc khí màu đen)
Dưới mũi có một loại sắc khí màu đen chỉ điềm xui rủi, không may. Trong sách Thành Đô Ký có chép, Ai Khách Sư và một vị thư sinh cùng qua sông. Sau khi lên thuyền và xem khắp khí sắc của người trong thuyền đã nói với người cùng đi với mình rằng: “Đừng đi vội!” Sau đó hai người lên trở lại trên bờ. Ai Khánh Sư từ tốn giải thích: “Tôi thấy mười mấy người trên thuyền này dưới mũi đều có sắc khí màu đen, chẳng mấy chốc mà gặp đại nạn. Đã biết là như vậy thì cùng đi với bọn họ làm gì?” Một lúc sau, thuyền vẫn không chạy được, bỗng nhiên có một người đàn ông thần sắc cao ngạo bất phàm bước tới và dắt lừa lên thuyền. Ai Khách Sư thấy người đó lên thuyền rồi nói với người cùng đi với mình: “Chúng ta có thể đi được rồi, quý nhân ở trước mặt, không cần phải lo nữa!”. Sau khi vị này lên thuyền, thuyền liền chạy được. Đến giữa sông, gió lớn tự nhiên nổi lên, mặc dù rất nguy hiểm nhưng cuối cùng mọi người cũng đều qua sông an toàn. Người đàn ông cưỡi con lừa đó chính là Lâu Sư Đức. Về sau, Lâu Sư Đức đảm nhiệm một chức quan trong tỉnh, sau đó trở thành vị quan đảm nhận trọng trách quan trọng, nắm quyền hành trong triều.
Tỵ tướng (tướng mũi)
Trong tướng học, mũi được gọi là Thẩm biện, Trung nhạc hay Thổ tinh. Mũi nằm ở bộ phận trung tâm trên khuôn mặt, hình dáng mũi có liên quan trực tiếp đến vận mệnh giàu sang hay vấn đề phúc họa của con người. Mũi nên cao, đầy đặn, không nên nhỏ và nhọn. Màu sắc tươi nhuận thì tốt, tối ám thì bần yểu; mũi lệch, vẹo thường là dấu hiệu của tai ương, nguy hiểm.
Băng giám (gương băng)
Kinh điển tướng học là Toàn thư được phân làm bảy thiên trong đó có các chương: Chương thứ nhất là Thần cốt, chương thứ hai là Cương nhu, cương thứ ba là Dung mạo, chương thứ tư là Tình thái, chương thứ năm là Mi tu, chương thứ sáu là Thanh âm, chương thứ bảy là Khí sắc. Giống như dùng băng để làm gương, soi tận đến tận cùng tơ trời mùa thu. Toàn thư cũng giống như là gương băng vậy. Đây là hình ảnh dùng để so sánh với thuật xem tướng người.
Tật nhãn
Chỉ mắt mệt mỏi, xem như là chẳng có chút sức lực nào, giống như thể bị bệnh lâu ngày chưa khỏi. Đây là tướng mắt không đẹp, người có tướng mắt như vậy chẳng thể thọ lâu.
Bá thần nhĩ
Chỉ một loại tướng tai có đỉnh tai cao quá lông mày. Người có tướng tai như vậy bệnh tật ít mà tuổi thọ cao, tài trí hơn người.
Bạc tướng (tướng bạc nhược)
Là một trong tám tướng, chỉ tướng mạo bạc nhược. Người xinh đẹp mà không có thần thì bạc nhược yếu ớt. Tướng như vậy không phải là loại tướng đẹp, tường mỏng dễ đổ, rượu nhạt dễ chua, chỉ mỏng dễ đứt, người tướng bạc nhược cuộc sống cũng sẽ chẳng thể dài lâu.
Bất dương
Chỉ tướng mạo bình thường.
Cung Tài bạch
Còn có tên gọi khác là Tài tinh. Chỉ mũi, là một trong 12 cung. Tướng mũi có thể phản ánh sự giàu nghèo của con người.
CUNG THÁI THÍNH (cơ quan thính giác)
Là một bộ phận thuộc Ngũ quan, chỉ hai tai. Tướng tai tốt phải là tai ngay ngắn, màu sắc tươi nhuận, tai cao quá mày, vành tai rõ rệt, dái tai dày dặn, lỗ tai to rộng.
Sàm nham chi tướng (tướng mạo phi phàm)
Chỉ hình tướng đặc biệt, đây là quý tướng. Tướng này phối hợp tương ứng với lời nói và thần sắc thì sẽ là người có tài xuất chúng.
Trường đầu điểu uế (đầu dài miệng nhọn)
Chỉ cổ dài, miệng nhọn như miệng của chim. Việt Thế Gia – Sử ký chép rằng: Việt Vương là người cổ dài miệng nhọn, là người có thể cùng chung hoạn nạn, sau lại có thể cùng chung hưởng sự an lạc.
SÀO OA (tổ, hang ổ)
Đây là chỉ mũi. Hình dạng mũi giống như một cái tổ, được sánh với nhà cửa của con người, cho nên sống mũi phải ngay thẳng, đầy đặn.
Thừa tương
Là một trong mười ba bộ vị, là phần lõm xuống ở bên dưới môi dưới, vị trí này nên đầy đặn mới là tốt.
Đồi nhan
Chỉ trán nhô lên.
Xỉ tướng (tướng răng)
Là hình tướng của răng. Từ hình tướng của răng có thể đoán được tuổi thọ và tình hình sức khỏe của con người. Răng ngay ngắn, to mà khít, dài mà thẳng, nhiều mà trắng. Răng chắc khỏe là trường thọ, răng mọc lộn xộn thường là người sống xảo quyệt, hay nổi nóng, tính hung bạo nên không thọ; răng thưa thì bần hàn, răng ngắn mà lại khuyết là tướng ngu muội, răng xỉn màu khô khốc thì bệnh tật nguy khốn. Khi nói mà không hở răng là tướng sang quý, đang tuổi tráng niên mà răng rụng thì không trường thọ.
Xích mạch quán tình (mạch máu đỏ nhiều trong tròng mắt)
Cũng giống như mạch máu đỏ trong con ngươi.
Cung xuất nạp
Là một trong Ngũ quan, chỉ miệng. Đạt Ma ngũ quan thuyết chép rằng: Miệng phải vuông vắn, rộng, môi hồng, đầy đặn, mở ra thì rộng khép lại thì hẹp, hình thành nên cung xuất nạp.
Sủy cốt (đo xương)
Dùng tay để đo xương cốt nhằm đoán tính cách vận mệnh, cũng giống như dò hình tướng của xương.
Sủy cốt ma cốt (đo và dò xét hình tướng của xương cốt)
Dùng tay để dò xét hình tướng của xương cốt, đây là cách của các thầy tướng pháp mù thường sử dụng.
Xuy hỏa khẩu (miệng thổi lửa)
Chỉ hình tướng của miệng giống như đang thổi lửa, đây là tướng cô độc lạnh lẽo.
Thùy kiên nhĩ (tai rủ xuống vai)
Chỉ tai dày và lớn, tướng tai có dái tai rủ xuống tới vai.
Thùy chu triều hải (tai kéo dài xuống tới bả vai)
Chỉ tai kéo dài xuống tới bả vai, đây là điềm báo về điều phúc thọ.
Thần bất trước xỉ (môi khít không nhìn thấy được răng)
Hai môi khép lại mà không để lộ răng. Người môi khép chặt không để hở răng dễ bị người khắc hại, mang điều thị phi.
Thần tướng (tướng môi)
Tướng của môi miệng. Quan sát tướng môi có thể đoán vận mệnh sang hèn của con người. Môi miệng phải ngay thẳng, dày dặn, không nên mỏng, nên có góc cạnh, không nên nhỏ hẹp. Sắc môi phải hồng đỏ như son thì mới được giàu sang và có phúc lộc, nếu xanh xao nhợt nhạt thì gặp tai ương yểu mạng, sắc môi đen dễ mất mạng vì bệnh hiểm nghèo, người có sắc môi tía sáng thì vui vẻ ấm no, người môi nhỏ hẹp cuộc đời thường gặp nhiều điềm bất lợi, người môi mỏng nhợt nhạt thì là mệnh nghèo khốn.
Người môi trên mỏng lời nói khó tin, người môi dưới mỏng là tướng bần tiện, người hai môi đầy đặn là người trung tín, người hai môi đều mỏng là người hay nịnh hót. Dưới hai môi bị che khuất là điềm bần hàn, môi nhọn thường dễ mất mạng trong nghèo khó, người môi lệch xuống dưới là người cô đơn lạnh lẽo. Người môi nhiều vằn chủ nhiều cháu con, người môi không có nếp vằn tính tình cô độc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét