DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE

Văn phòng Diện Chẩn Sống Khỏe_ Khu nhà 102 Ngõ 95 Chùa Bộc-Đống Đa-Hà Nội _ ĐT : 0906143408

Hướng dẫn lý thuyết và thực hành cơ bản miễn phí cho những quí vị thực sự yêu thích Diện Chẩn . Hãy gọi cho chúng tôi để biết lịch .

Tư vấn sức khỏe , chẩn bệnh đưa ra phác đồ miễn phí

Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015

Vòng Thái tuế - Tràng Sinh - Lộc tồn dưới cái nhìn của cụ Thiên Lương

VÒNG THÁI TUẾ

Ðây là vòng tư cách hạnh kiểm của từng cá nhân

Vòng Thái Tuế gồmm 12 sao là Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Ðức, Bạch Hổ, Phúc Ðức, Ðiếu Khách, Trực Phù.

Vòng Thái Tuế được chia thành 4 nhóm tam hợp:

Thái Tuế - Quan Phù - Bạch Hổ 

Thiếu Dương - Tử Phù - Phúc Ðức 

Tang Môn - Tuế Phá - Ðiếu Khách 

Thiếu Âm - Long Ðức - Trực Phù 

Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Thái Tuế

Người có cung Mệnh hay Thân tại đúng cung tuổi hay trong tam hợp cung tuổi trên địa bàn Tử Vi là được hưởng Thái Tuế, một ngôi vị thịnh vượng chính đáng cho người thọ hưởng được thỏa mãn hài lòng với vị trí của chính mình. 

Tuế Phù Hổ là người đáng trọng vì có tư cách nhân phẩm, không thể có đầu óc làm quấy, là người thành tâm thiện ý gánh vác trách nhiệm những công việc có tính cách lợi ích, chính nghĩa, không vị kỷ để rồi thành công đồng hưởng. Ðây là người nghĩ đến phận sự của mình như có trách nhiệm phải làm, một khi làm thì phải làm sao cho xứng đáng với tư cách nhân phẩm, đâu cần phải có Khoa Quyền Lộc, nếu có chi là gấm thêu hoa. Ðây là hạng người đáng trọng, là người tối thiểu có tư cách, từ người làm mướn cho đến tột đỉnh cao sang tùy theo địa vị thứ lớp người đó đứng trong xã hội. Số nào Mệnh Thân đồng cung tam hợp Thái Tuế nếu có thêm Ðẩu Quân thì dầu ở trong hoàn cảnh nào cũng không phải là thường nhân ti tiện, ít ra cũng đủ bổn phận, có danh gì với núi sông.

Thái Tuế: rất tự hào, tự coi mình như có trách nhiệm làm việc chính đáng. Không thể là người bất nhân nếu có Thái Tuế thủ Mệnh. Mệnh Thái Tuế gặp Thiên Khốc đóng (tuổi Dậu) cũng đưa thân thế lên hàng danh dự, chính nghĩa vang dội

Quan Phù: hành động chính đáng với sự suy tính kỹ càng, thận trọng trước khi hành động, là người sinh ra đã có một trách vụ gì với xã hội

Bạch Hổ: cương quyết, đầy tham vọng, cố gắng, hâm hở làm việc chính đáng, khi làm việc chính nghĩa thì ham mê làm với bất cứ giá nào, dẫu rằng có ý nghĩa vị tha nhưng cũng không ngoài thỏa mãn dục vọng. Người Bạch Hổ mang danh nghĩa khí nhưng còn để ý đến Quyền Lộc riêng tư. Nếu Bạch Hổ gặp Ðường Phù thì không nên quá tự hào coi hưởng thụ Lộc Tồn như thù lao xứng đáng với công khó nhọc mà mình đã xây đắp cho xã hội, tuy là người được ghi danh hậu thế nhưng nội tâm vẫn chưa cho phép mãn nguyện

Ba vị trí này luôn luôn được hưởng bộ Tứ Linh Long Phượng Hổ Cái đem lại sự vinh dự, may mắn, hưng vượng, thỏa mãn và đắc ý (bằng cách này hay cách khác) cho người được hưởng.

Tuy nhiên vì vòng Thái Tuế xuất phát từ địa chi (ngọn) nên chỉ là mong manh và là giai đoạn mà thôi, nên cần phải phối hợp thêm:

Thái Tuế + Tràng Sinh: tam hợp Sinh Vuong Mộ (Cục tuổi) tăng thêm sức mạnh cho tam hợp Thái Tuế; nên người được hưởng Thái Tuế mà có thêm tam hợp Tràng Sinh thì sẽ hơn hẵn những người không được Sinh Mộ Vượng tam hợp.

Thái Tuế + Quốc Ấn : được vòng Lộc Tồn (Thiên Can) tam hợp nên được hưởng Thái Tuế một cách chính đáng và bền bĩ; dành cho những tuổi được hưởng Lộc Tồn chính đáng.

Thái Tuế + Ðường Phù: chỉ sự phiếm hư không bền vững, thường xuyên có mặt Kình hoặc Ðà và Song Hao ở cảnh nghịch địa âm dương của Lộc Tồn; nên sự thụ hưởng Thái Tuế bị hạn chế, chỉ còn là những cơn mưa mát mát (danh dự) tạm bợ mà thôi, chứ không thể làm cho đất (Ðịa Chi) nẩy mầm xanh lâu dài được.

Thái Tuế + Không Kiếp: sinh bất phùng thời, có tài nhưng không được trọng dụng; nếu là tam hợp Thiếu Âm thì hay bị người qua mặt, lợi dụng mà phải chịu thiệt.

Thái Tuế + Tả Hữu: nhân phẩm, có tư cách vạn năng

Mệnh Thái Tuế, Thân Tuế Phá: cuộc đời không thiếu sót bổn phận, nhưng vãn niên thấy như bị ép buộc, phần hành động (Thân) như bị bắt buộc không được làm theo như ý mình vì một lẽ gì đó, mà còn bị bạc đãi là đằng khác, đành cam chịu nhận sự bạc bẽo, không đổ trách nhiệm cho người khác, không thể thổ lộ cùng ai. Vì là mệnh Thái Tuế nên không thể là người miệng nói nhân nghĩa mà làm việc ma giáo.

Mệnh Tuế Phá, Thân Thái Tuế: sinh thời gặp nhiều khó khăn và bất mãn, gặp bước lưu ly nhưng vẫn giữ được tấc dạ sắt son không thể sống ùa theo vô nghĩa, tự mình vạch lấy con đường lý tưởng để đi.

Thân Mệnh đồng cung có Thái Tuế: người nhân hậu ngay trong huyết quản, gặp Thiên Tài thì sẽ được Thiên Tài cất dọn tất cả những gì trở ngại cho Mệnh

Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Ðường Tử Phúc 

Dương Tử Phúc: là người thông minh nhạy cảm hơn đời, nhưng đừng tự hào ham mê tục lụy bởi vì đời chỉ là số không trống rỗng, nên trọng đức vì chữ đức bằng ba chữ tài. Người nầy đứng ở vị trí ngã ba đường, nếu biết đi thì gặp Tứ Ðức, nếu làm quấy thì gặp Thiên Không. Khoa Quyền Lộc đối với hạng nầy thì như bùa mê thuốc lú, làm cho người say đắm bả vinh hoa, lầm lạc vì mùi phú quí, nếu vung tay quá trớn thì một khi hoi cai thì mọi việc đã rồi. Thiên Không có một vị trí nhất định nằm sau Thái Tuế, giữ trách nhiệm canh phòng không cho ai hưởng đặc y trên mức tối đa Thái Tuế, nếu không lấy Ðức (Thiên Không luôn luôn có Tứ đức tam hợp xung chiếu) làm khuôn vàng thước ngọc thì chỉ là một số Không to lớn. Thiên Không luôn luôn có Ðào Hồng. Khi gặp Ðào Hoa ở Tí Ngọ Mão Dậu (tuổi Dần Thân Tỵ Hợi) thì là người vì lòng tự hào có phần cao nên Thiên Không hãm hạng người nầy vào vòng di lụy khi tham vọng quá mức (Ðào Hoa Thiên Không), Ðào Hoa lắm tham vọng sinh ra lắm mưu, nhiều mẹo quỉ quyệt thì rồi kẹt quá cũng là nước lã ra sông. Thiên Không gặp Hồng Loan tại Dần Thân Tỵ Hợi (tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi) thì lại đầy ý nghĩa vị tha, là người biết hiểu thân phận chân yếu tay mềm, dễ khiến nhạy cảm yếm thế (Thiên Không Hồng Loan). Thiên Không tại Thìn Tuất Sửu Mùi (tuổi Tí Ngọ Mão Dậu) thì có chân tướng cay nghiệt, vì tuổi Tứ Chính là người khẳng khái nhiều khi quá cứng rắn nên kết quả thường đem lại có phần ác liệt

Thiếu Dương: thông minh, nhạy cảm và sáng suốt, khôn ngoan.

Tử Phù: muốn hơn người, nhưng thường bị kẹt.

Phúc Ðức: muốn được hơn người thì phải có đức độ. 

Người mà có cung Mệnh hay Thân đóng tại vị trí tuổi được sinh nhập (tức tam hợp cung tuổi sinh nhập cho tam hợp cung Mệnh hay Thân) nên được tinh khôn hơn người, phải biết rằng chữ "Ðức" (Thiên Nguyệt Ðức) đáng trọng bằng ba chữ Tài ; bằng không thì Thiên Không sẽ ra tay để thì hành sứ mạng, rồi ra mọi sự cũng thành không. Thiên Không nay chính là giấc mộng hoàng lương cho những ai biết ngộ được chữ "không" của đời mình thì sẽ tránh được mọi phiền não do Thiên Không (vì ở vào hoàn cảnh nghịch lý âm dương nên luôn luôn có mặt gây ra. 

Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Tuế Phá

Tang Tuế Ðiếu: là người sống trong hoàn cảnh bất mãn, luân phiên bất đắc ý, nên thường có Thiên Mã, nhưng có được hưởng Thiên Mã hay không lại là khác. Vì thường thấy thất vọng triền miên nên hạng người Tang Tuế Phá dễ làm việc thất nhân tâm. Thiên Mã đem lại nghị lực, khả năng giúp đời. Mã ở Dần gặp Mệnh Mộc, ở Tỵ gặp Mệnh Hỏa, ở Thân gặp Mệnh Kim, ở Hợi gặp Mệnh Thủy là gặp đúng chủ nhân. Thiên Mã đối với hạng người nầy có giúp đỡ cho đương số được tới mức độ nào hay không thì phải đem hành bản Mệnh so sánh với hành nơi Mã đóng. Khoa Quyền Lộc đối với hạng nầy thì như bùa mê thuốc lú, làm cho người say đắm bả vinh hoa, lầm lạc vì mùi phú quí, nếu vung tay quá trớn thì một khi hối cải thì mọi việc đã rồi.

Tang Môn: bất mãn, lòng thường bâng khuâng, khóc lóc bi thương, nặng lo và tính toán. Nếu gặp được Khoa thêm Tả Hữu thì trở thành đáng kính vì tính nhân hậu, đặc biệt khả năng uyên bác, nếu được Thiên Mã đồng tính phò trợ thì cũng hữu công vô lao, may mắn thì được danh thơm hậu thế

Tuế Phá: bất mãn, hận lòng, muốn đả phá quật ngược. Người Tuế Phá bị hoàn cảnh làm cho vụng suy thất ý, nếu không giữ được chính tâm và Khoa Quyền Lộc quyến rũ thì rất dễ làm những điều bạo nghịch để vinh thân rồi lưu xú vạn niên

Ðiếu Khách: bất mãn, thường hay lấy lời lẽ thuyết phục phân trần cho hoàn cảnh hiện tại, nhưng cũng không đem lại gì hơn

Người có cung Mệnh hay Thân đóng tại vị trí tuy cùng phe phái âm dương nhưng xung khắc đối nghịch với tuổi (tức tam hợp cung tuổi khắc xuất hoặc khắc nhập tam hợp cung Mệnh hay Thân) nên thường trong tình trạng bất mãn và chống đối; được Thiên Mã là nghị lực, tài năng mẫn cán có mặt để phụ giúp cho Mệnh số trong những hoàn cảnh trái ngang nầy (mức độ phụ giúp và thành bại còn tùy vào Thiên Mã nầy có phải là của mình hay không).

Tuế Phá + Không Kiếp + Tả Hữu : cũng như với tam hợp Thiên Không, là người có nhiều thủ đoạn hơn người, thị kỷ phi nhân, là người không thể đặt niềm tin vào, một khi họ chủ trương một công việc gì có thể coi là công việc vị tha thì thật ra cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình là chính, còn thừa thải mới là lợi chung. Người nầy dù có được Chính thiện tinh thủ mệnh thì cũng chẳng qua chỉ là những sự đạo đức giả bên ngoài. Hạng người nầy bị hoàn cảnh làm cho vụng suy thất ý, nếu không giữ được chính tâm thì rất dễ làm những việc bạo nghịch để rồi phải bị mang tiếng ô danh.

Tuế Phá + Ðẩu Quân: là một phường Từ Hải Hoàng Sào, nếu Mệnh Thân đồng cung thì nghênh ngang một cõi biên thùy khó ai rung chuyển nổi, với bất cứ giá nào đạt được ý chí bất khuất nhưng thật ra thân tâm mang hận đến tuyền đài khôn nguôi

Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Thiếu Âm

Âm Long Trực: là người đáng mến do có thiện chí làm việc nhưng luôn luôn bị đời bạc đãi, dù có Khoa Quyền Lộc thì chỉ càng thêm đau đớn. Ðây là hạng người đáng mến. Tuy bị đời bạc đãi nhưng tỉnh ngộ ra vẫn thấy tốt đẹp vì có Hồng Loan tô điểm hay được đền bù bằng Lộc Tồn nhỏ giọt

Thiếu Âm: dễ lầm lẫn, tin người nên hay bi lợi dụng; làm cho người khác hưởng, quá tin tưởng người lại vụng tính.

Long Ðức: an ủi vì thua thiệt mà tự kiềm chế, biết bon chen cũng không đi đến đâu.

Trực Phù: chịu nhiều thiệt thòi, công lao không được hưởng xứng đang.

Người có cung Mệnh hay Thân đóng tại vị trí tuổi bị sinh xuất (tức tam hợp cung tuổi sinh xuất cho tam hợp cung Mệnh hay Thân) là nghịch lý âm dương nên bị thua thiệt, có nhiều thiện chí nhưng tiếc rằng phận hẩm duyên hiu, luôn luôn bị đời bạc đãi; thường được an ủi bằng Lộc Tồn (trong nghịch cảnh) tưởng cũng không tốt đẹp gì, vì thường có Lưu Hà và Kiếp Sát canh giữ; nếu biết thì nên chọn con đường chánh là Long Ðức mà đi. Ðược Thiên Hỷ (tuổi Dương) và Hồng Loan (tuổi Âm) an ủi, dầu trong hoàn cảnh nào cũng nên giữ lấy sự vui vẻ, hoà nhã và kiên nhẫn rồi ra sẽ có ngay được bù đắp và dự phần sáng tỏ với người

Chủ ý theo Thiên Lương, cần xét thêm:

Hoá Khoa: ảnh hưởng lên nhân cách, có tác dụng cải hoán tư cách. Người có Hoa Khoa là người tính tình nhân hậu, có khả năng, có danh giá, do khổ công luyện tập mà có nên tài năng nầy đáng quí trọng, huống chi còn tiềm tàng sâu rộng đức cứu khổ trợ nguy. Ví dụ Hoá Khoa gặp bộ Sát Phá Tham nói chung, hãm địa nói riêng, thì có tác dụng cải đổi tư cách, là trường hợp hung tinh ngộ chế, khiến trở thành những hiền nhân treo cao phẩm giá. Hoá Khoa dù với Nhật Nguyệt Ðồng Lương thì nếu danh thành tích đặc hạng của một chuyên khoa, chỉ rõ một thượng thặng siêu ngành riêng biệt.

Tuần, Triệt: Người không có Tuế Phù Hổ thủ Mệnh Thân mà có Tuần Triệt án ngữ tại Mệnh Thân thì là người như những con thiêu thân, chẳng may bị đặt vào vị trí không cho phép hài lòng, gặp Tuần Triệt thì tự hồi chánh, trở nên những thành phần lương đống, hữu ích cho xã hội, năng tư cách phơi bày hạnh kiểm cá nhân lên hàng danh dự, không thua gì người có tam hợp Thái Tuế. Thêm vài ví dụ như Sát Phá Tham gặp Tuần Triệt thì cũng mất tính cách hung hãn, gặp Triệt thì không còn gì hung hãn, gặp Tuần thì giảm tốc lực của bộ máy tinh vi thực hành đắc dụng

Thiên Tài: biến đổi tính cách chậm chạp, từ từ biến đổi

[img]images/shim.gif[/img]

VÒNG LỘC TỒN (Thiên Can)

Vòng Lộc Tồn gồm 12 sao là Lộc Tồn – Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ

Vòng Lộc Tồn được chia thành 4 nhóm tam hợp:

(Lộc Tồn, Bác Sĩ) - Tướng Quân - Bệnh Phù 

Lực Sĩ - Tấu Thư - Đại Hao 

Thanh Long - Phi Liêm - Phục Binh 

Tiểu Hao - Hỷ Thần - Quan Phủ 

Chú ý an theo vòng Lộc Tồn còn có Kình Đà (Lộc Tồn bao giờ cũng có Kình Đà giáp biên, chú ý cụ Thiên Lương an Kình Đà theo nguyên tắc Kình Dương Lực Sĩ luôn luôn đồng cung), Quốc Ấn và Đường Phù, trong đó Lộc Tồn Quốc Ấn bao giờ cũng tam hợp chiếu, còn Đường Phù thì an nghịch lý Âm Dương với Lộc Tồn (nếu Lộc Tồn cư ở cung Dương thì Đường Phù cư ở cung Âm va ngược lại)

Cụ Thiên Lương giải thích vòng này như sau: 

(Lộc Tồn, Bác Sĩ) - Tướng Quân - Bệnh Phù : ở thế chủ chốt, quang minh nhân hậu (Bác Sĩ), hiên ngang (Tướng Quân) dầu có bị suy tàn (Bệnh Phù)

(Lực Sĩ, Kình Dương) - Tấu Thư - Đại Hao: tư thế của kẻ ăn no vác nặng (Kình Lực), có cố gắng học hỏi Tấu Thư) cũng chẳng đi đến đâu Đặi Hao) 

Thanh Long - Phi Liêm - Phục Binh: tư thế của kẻ có gặp bước mây Thănh Long), làm việc như vũ bão cướp thời gian (Phi Liêm) cũng chỉ là nhất thời (Phục Binh)

Tiểu Hao - Hỷ Thần – Quăn Phủ, Đà La): tư thế của kẻ lầm lì (Đà La) làm ra vẻ hào phóng (Hỷ Thần) cũng chỉ trong đom đóm (Tieu Hao) ngoài bó đuốc Quăn Phủ) cho thị phi đàm tiếu 

Lộc Tồn là Thiên Lộc, lộc do thiên mệnh ban phát, mức độ thụ hưởng ít hay nhiều tuỳ thuộc vào sự sinh khắc của Can Chi tuổi, nếu làm không đúng sẽ có những hậu quả bù trừ. Lộc Tồn là một thứ Lộc cao quí nhất trong các Lộc được bao bọc kỹ lưỡng trong một cái bao Bác Sĩ, Lực Sĩ,…, Quan Phủ, có giây cột Kình Đà, cá nhân tuỳ theo hoàn cảnh tự suy tính đời mình mà tháo dây mở gọi Lộc Tồn còn được bảo vệ bởi Lưu Hà, Kiếp Sát đối phó với những thành phần không phải là chính chủ nhân có đầy đủ văn kiện chứng minh hợp lệ. 

Các tuổi được hưởng Lộc Tồn: 

Giáp: Dần Ngọ Tuất

Ất: Hợi Mão Mùi

Canh: Thân Tí Thìn

Tân: Tỵ Dậu Sửu

Phải xét thêm Can Chi sinh khắc và các sao như Tuần Triệt tại cung tam hợp Lộc tồn để biết mức độ thụ hưởng ít hay nhiều. Như hai tuổi Canh Thìn và Tân Tỵ thì Lộc phùng Thiên Không, còn hai tuổi Canh Tí và Canh Thân thì cung Quan bị Tuần nên sự thụ hưởng Lộc Tồn bị kém sút.

Với các tuổi được hưởng trên, Mệnh phải thuộc vòng Thái Tuế (Tuế Phù Hổ) và được Quốc Ấn công chứng bảo đảm thì mới được hưởng cách trọn vẹn, còn tại những vị trí khác thì khi nào đáo Hạn mới được hưởng. Quốc Ấn luôn luôn tam hợp với Lộc Tồn, là một chứng chỉ được để công nhận minh bạch quyền thế được thụ hưởng. Do Quốc Ấn có Thái Tuế, không bị Tuế Phá và Thiên Hư (lúc nào cũng đồng cung) lũng đoạn nên được quyền sở hữu vĩnh viễn

Các tuổi hưởng Lộc Tồn trong nghịch cảnh:

Giáp: Thân Tí Thìn

Ất: Tỵ Dậu Sửu 

Canh: Dần Ngọ Tuất

Tân: Hợi Mão Mùi

Các tuổi trên tuy vẫn có Lộc Tồn Quốc Ấn nằm trong thế tam hợp nhưng Quốc Ấn bị Phá Hư làm giảm giá trị không đảm bảo hưởng lâu dại Được coi là hưởng trong nghịch cảnh vì Lộc Tồn ở vị trí Tang Tuế Điếu, nhận không được đầy đủ hoặc ở trong đó có sự gì người đời phải đặt dấu hỏi (?)

Nói chung để hưởng Lộc Tồn thì cần thuận lý Âm Dương (Tuổi Dương Lộc Tồn cư cung Dương, tuổi Âm Lộc Tồn cư cung Âm). Khi được hưởng Lộc Tồn thì có tuỳ theo trường hợp, Mệnh ở trong tam hợp Tuế Phù Hổ hoặc Tang Tuế Điếu có Lộc Tồn thì hưởng, nếu khi ở các vị trí khác thì khi gặp thì mới được hưởng

Còn 6 tuổi Bính Đinh, Mậu Kỷ, Nhâm Quý thì Lộc Tồn bị nghịch lý Âm Dương (tuổi Dương, Lộc Tồn cư Âm cung; tuổi Âm, Lộc Tồn cư Dương cung) nên chỉ là phiếm hư không thuận cách thụ hưởng vì các tuổi này thì hoặc Mệnh (là định mệnh) hoặc Thái Tuế (là Thiên Thời đắc thắng), hoặc Lộc Tồn (là hạnh Phúc phú quí) thường xuyên bị Tuần Triệt, Thiên Không hay Không Kiếp phá hỏng (các sao này không ở Mệnh thì ở Thái Tuế, không ở Thái Tuế thì ở Lộc Tồn). Nếu hưởng thì cũng không được đầy đủ, lâu bền hoặc hưởng một cách bất chính (???). Ngoài ra luôn luôn có mặt Lưu Hà, Kiếp Sát và Thiên Không để canh giữ và thi hành luật bù trừ. Đối với các tuổi này, Lộc Tồn chỉ là mối phú quí nhử làng xa mã


VÒNG TRÀNG SINH

Thiên Lương an vòng Tràng Sinh với cung khởi tùy thuộc vào Âm Dương, Mộ phải cư Mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi), làm sao cho Dương Nam âm Nữ thì Tràng Sinh ở Tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi), Đế vượng ở Tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu), còn Âm Nam Dương Nữ thì Tràng Sinh ở Tứ Chính, Đế Vượng ở Tứ sinh. Như vậy Cục Hỏa Thủy Kim Mộc Dương Nam Âm Nữ thì khởi tại Dần Thân Tỵ Hợi, nhưng Âm Nam Dương Nữ thì khởi tại Tí Ngọ Mão Dậu. Còn cục Thổ thì cụ Thiên Lương khởi tại Dần Ngọ, Dương Nam Âm Nữ khởi tại Dần, Âm Nam Dương Nữ khởi tại Ngọ)

Vòng Tràng Sinh bao gồm:

Tràng sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng .

Đây là một vòng luân chuyển khép kín, nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai.

Vì vòng Tràng Sinh được an căn cứ theo cục, nghĩa là từ năm sinh (gồm đầy đủ Can Chi) mà tính ra hành nạp âm của tháng sinh mà cung Mệnh rơi vào trên địa bàn, hành nạp âm nay được gọi là cục, nên cụ Thiên Lương nói rằng Vòng Tràng Sinh là hình bóng hợp nhất của 2 vòng Thái Tuế (chỉ căn cứ vào chi của năm sinh, Địa Chi) và Lộc Tồn (chỉ căn cứ vào can của năm sinh, Thiên Can)), được sắp xếp theo "cục" của tuổi ở vị trí an Mệnh. Vòng Tràng Sinh chỉ sự chuyển vận từ thịnh đến suy của các cung và đại vận luân lưu để nhắc nhở cho thế nhân được biết lẽ thiệt hơn để mà huớng dẫn cuộc sống và xử thế. Người có số đang diễn hành trong cảnh nào tự biết mà dấn thân tìm đường để sống.

Đây là vòng có liên quan đến phần tinh thần, liên quan đến cách xử thế của cá nhân trong cuộc đời. Đay là vòng giáo lý nhắc nhở cá nhân sử thế cho dù ở vào hòan cảnh thịnh hay suy. 

Theo cách sắp xếp các sao của vòng Tràng Sinh thì cả Thân và Mệnh sẽ hoặc rơi vào Sinh Vượng Mộ, Dục Suy Tuyệt, hoặc rơi vào Đới Bệnh Thai, Quan Tử Dưỡng. Điều này cũng giống như Mệnh Thân đều hoặc nằm chung cùng cung Âm hoặc cung Dương. Do đó cụ Thiên Lương đã phân chia âm dương cho vòng Tràng sinh. Theo cụ, vòng Tràng Sinh có hai mặt Âm Dương:

Dương: Sinh Vượng Mộ, Dục Suy Tuyệt (là hai thế chính): đang hòang cư xử được người mến trọng, lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển 

Âm: Đới Bệnh Thai Quan Tử Dưỡng (là hai thế phụ): ăn sổi ở thời thì không

Ai tưởng nhớ, giấy rách thì phải có xếp lấy lề. Đam mê rồi cũng không còn gì, nên tu tâm dưỡng tánh.

Vòng Tràng Sinh được sắp xếp vào tam hợp như sau:

Sinh Vượng Mộ: người giữ gìn được nhân nghĩa, đàng hòang, được mến trọng, đến lúc qua đời (Mộ) vẫn được mồ yên mả đẹp, mến trọng (đàng hòang mồ yên)

Dục Suy Tuyệt: ham tục lụy (Dục), ăn sổi ở thì, đua chen đến lúc tàn tạ (Suy) không ai nhắc đến (Tuyệt) (vội ham tàn tích)

Đới Bệnh Thai: đời chỉ là giấc mộng vàng, từ lúc áo mão căn đai (Quan Đới) đến ốm đau bệnh họan (Bệnh) chỉ là thịnh (Quan Đới) suy (Bệnh) luân kiếp (Thai, là tái sinh) (thịnh suy hòan dương)

Quan Tử Dưỡng: đời đã được hãnh diện (Lâm Quan) đến chết (Tử) cũng phải tu dưỡng (Dưỡng) tâm tính như tờ giấy rách nát cũng gấp giữ cho nề nếp (giấy rách giữ lấy lề)

Khi được sắp xếp vào Tam hợp thì vẫn giữ được ý nghĩa của 12 giai đọan vận chuyển liên tục, thay đổi là tùy Mệnh Thân đóng ở vị trí nào vẫn cho người đời một bài học triết lý răn dạy để xử thế. Tràng Sinh là bước đường dài từ lúc thụ thai trong bụng mẹ đến ngày thành nấm mồ trong mộ địa tuyệt tích, lấy trung bình là 60 năm hoa giáp, dù làm vương tướng gì thì cũng gặp cảnh thịnh suy luôn phiên diễn bày. Tòan bộ vòng là một triết lý khuyên đời xử thế: đường hòang cư xử được người qúi mến, lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển, ăn sổi ở thì thì không ai tưởng nhớ, giấy rách phải giữ lấy lề. Người có số đang hiện ở trong cảnh nào tự mà dấn thân tìm đường mà sống. Mỗi chữ trong vòng tràng sinh là một giai đọan đường đời (là 10 năm nếu xét theo đại hạn). Mệnh ở Sinh hay Vượng đi đến Bệnh hay Tử thì đương số phải hiểu lẽ thịnh đã qua, nay gắng chịu cảnh bỉ cực. Bản chất là đường hòang thấy đạo mồ yên mã đẹp (Sinh Vượng) là quí, cũng không thể tránh được thời tan tạ (Bệnh Tử)
Theo Thiên Lương tam hợp Sinh Vượng Mộ cũng đem lại sự thịnh đạt không khác gì tam hợp Tuế Phủ Hổ, và để được huởng Sinh Vượng Mộ một cách tòan diện, mỹ mãn thì chỉ có người thuận lý Âm Dương (Dương Nam và người Âm Nữ) được huởng Sinh Vượng Mộ một cách trọn vẹn với điều kiện phải là:


Dương Nam: Tuổi Thân Tí Thìn, cục Thủy

Tuổi Dần Ngọ Tuất, cục Hỏa hay cục Thổ (chú ý Thiên Lương khởi vòng tràng sinh cho cục Thổ tại Dần hoặc Ngọ)


Âm Nữ: Tuổi Tỵ Dậu Sửu, cục Kim

Tuổi Hợi Mão Mùi, cục Mộc


Còn tuổi Âm Nam Dương Nữ thì huởng chữ Mộ đây ý nghĩa không tọai chí, nghĩa là người nghịch Âm Dương (Âm Nam, Dương Nữ) thì huởng không đáng kể, tuy nhiên mỗi khi đáo vận Sinh Vượng Mộ thì cũng sẽ được hanh thông ít nhiều, nhưng thực chất không có gì đáng kể. 

Tuổi Tứ Sinh và Thủy mệnh được đặc cách hưởng Tràng Sinh lâu dài, bền vững 


Tuổi Tứ Chính và Kim mệnh được đặc cách hưởng Đế vượng một cách thịnh vượng 


Tuổi Tứ Mộ được đặc cách hưởng Hoa Cái (danh dự) hưởng đến mức độ nào tùy hành Mệnh sinh khắc với hành kim của Hoa Cái. 

Đại vận có Sinh Vượng Mộ, nếu là người thuận lý Âm Dương và trúng tuổi (như đã đề cập bên trên), cuộc sống thuờng gặp những thăng mây thuận bước, còn nghịch lý Âm Dương thì chỉ còn là phấn son tô điểm, trên thực tế không đáng kể.


Bài của Trừ Mê Tín

1 nhận xét: